RouterOS 7 multiwan PPPoE loadbalance script

Script by [email protected]

Last edit 04/01/2022

Please try my RouterOS 7 multiwan PPPoE loadbalance script

Main features:
1) This script allows you to send traffic from special address lists via certain pppoe connection, bypassing the load balance logic (for example your TV should always go only via pppoe-02)
2) This script supports HAIRPIN-NAT
3) This script solves the multiwan issue when you are building outgoing VPN tunnels (openvpn, wireguard, IPSec etc). Please see the pppoe profile section.
4) This script is CPU friendly

In this script I assume you have 2 pppoe WAN links:
1) ether1 with pppoe-01 (FPT)
2) ether2 with pppoe-02 (VNPT)

And 2 LAN bridges:
1) bridge-lan-01
2) bridge-lan-02

Send your feedback to [email protected]

/interface/list/add name=WAN comment="For Internet"
/interface/list/add name=LAN comment="For Local Area Networks"


/interface pppoe-client
add disabled=no interface=ether1 name=pppoe-01 add-default-route=no user=fpt1 password=fpt1
add disabled=no interface=ether2 name=pppoe-02 add-default-route=no user=vnpt1 password=vnpt1


/interface/bridge/
add name=bridge-lan-01 comment=LAN1
add name=bridge-lan-02 comment=LAN2
/interface/bridge/port
add bridge=bridge-lan-01 interface=ether3
add bridge=bridge-lan-01 interface=ether4
add bridge=bridge-lan-01 interface=ether5


/interface/list/member/add interface=ether1 list=WAN comment="Uplink WAN for PPPoE-01"
/interface/list/member/add interface=ether2 list=WAN comment="Uplink WAN for PPPoE-02"
/interface/list/member/add interface=pppoe-01 list=WAN comment=PPPoE-01
/interface/list/member/add interface=pppoe-02 list=WAN comment=PPPoE-02 
/interface/list/member/add interface=bridge-lan-01 list=LAN
/interface/list/member/add interface=bridge-lan-02 list=LAN


/ip/neighbor/discovery-settings/set discover-interface-list=!WAN
/tool/mac-server/set allowed-interface-list=LAN
/tool/mac-server/mac-winbox/set allowed-interface-list=LAN


/ip/firewall/address-list
add address=0.0.0.0/8 comment="\"This\" Network" list=BOGONS
add address=10.0.0.0/8 comment="Private-Use Networks" list=BOGONS
add address=100.64.0.0/10 comment="Shared Address Space. RFC 6598" list=BOGONS
add address=127.0.0.0/8 comment="Loopback" list=BOGONS
add address=169.254.0.0/16 comment="Link Local" list=BOGONS
add address=172.16.0.0/12 comment="Private-Use Networks" list=BOGONS
add address=192.0.0.0/24 comment="IETF Protocol Assignments" list=BOGONS
add address=192.0.2.0/24 comment="TEST-NET-1" list=BOGONS
add address=192.168.0.0/16 comment="Private-Use Networks" list=BOGONS
add address=198.18.0.0/15 comment="Network Interconnect Device Benchmark Testing" list=BOGONS
add address=198.51.100.0/24 comment="TEST-NET-2" list=BOGONS
add address=203.0.113.0/24 comment="TEST-NET-3" list=BOGONS
add address=224.0.0.0/4 comment="Multicast" list=BOGONS
add address=192.88.99.0/24 comment="6to4 Relay Anycast" list=BOGONS
add address=240.0.0.0/4 comment="Reserved for Future Use" list=BOGONS
add address=255.255.255.255 comment="Limited Broadcast" list=BOGONS


/ip/dns/set servers=1.1.1.1,8.8.8.8

/ip/address/add interface=bridge-lan-01 address=192.168.88.1/24 comment="LAN1 IP"
/ip/address/add interface=bridge-lan-02 address=172.16.0.1/23 comment="LAN2 IP"

/routing/rule/add dst-address=192.168.88.0/24 table=main action=lookup comment="to LAN1"
/routing/rule/add dst-address=172.16.0.0/23 table=main action=lookup comment="to LAN2"

/ip/firewall/nat/add action=masquerade chain=srcnat comment="Masquerade WAN (non-ipsec)" ipsec-policy=out,none out-interface-list=WAN
/ip/firewall/nat/add action=src-nat chain=srcnat comment="Hairpin to LAN1" out-interface=bridge-lan-01 src-address=192.168.88.0/24 to-addresses=192.168.88.1
/ip/firewall/nat/add action=src-nat chain=srcnat comment="Hairpin to LAN2" out-interface=bridge-lan-01 src-address=172.16.0.0/23 to-addresses=172.16.0.1

/routing/table/add disabled=no fib name=rtab_pppoe-01
/routing/table/add disabled=no fib name=rtab_pppoe-02


/ip/firewall/mangle/add action=mark-connection chain=prerouting comment="Connmark in from PPPoE-01" \
    connection-mark=no-mark in-interface=pppoe-01 new-connection-mark=connmark_pppoe-01 passthrough=no
/ip/firewall/mangle/add action=mark-connection chain=prerouting comment="Connmark in from PPPoE-02" \
    connection-mark=no-mark in-interface=pppoe-02 new-connection-mark=connmark_pppoe-02 passthrough=no

/ip firewall mangle add action=mark-connection chain=prerouting connection-mark=no-mark \
    comment="Address List via PPPoE-01" dst-address-list=!BOGONS dst-address-type=!local new-connection-mark=connmark_pppoe-01 \
    passthrough=yes src-address-list=Via_PPPoE-01
/ip firewall mangle add action=mark-connection chain=prerouting connection-mark=no-mark \
    comment="Address List via PPPoE-02" dst-address-list=!BOGONS dst-address-type=!local new-connection-mark=connmark_pppoe-02 \
    passthrough=yes src-address-list=Via_PPPoE-02

/ip firewall mangle add action=mark-connection chain=prerouting connection-mark=no-mark \
    comment="LoadBalance transit connections via PPPoE-01" dst-address-list=!BOGONS dst-address-type=!local new-connection-mark=connmark_pppoe-01 \
    passthrough=yes per-connection-classifier=both-addresses-and-ports:2/0
/ip firewall mangle add action=mark-connection chain=prerouting connection-mark=no-mark \
    comment="LoadBalance transit connections via PPPoE-02" dst-address-list=!BOGONS dst-address-type=!local new-connection-mark=connmark_pppoe-02 \
    passthrough=yes per-connection-classifier=both-addresses-and-ports:2/1


/ip/firewall/mangle/add action=mark-routing chain=prerouting \
    comment="Routemark transit out via PPPoE-01" connection-mark=connmark_pppoe-01 \
    dst-address-type=!local in-interface-list=!WAN new-routing-mark=rtab_pppoe-01 passthrough=no
/ip/firewall/mangle/add action=mark-routing chain=prerouting \
    comment="Routemark transit out via PPPoE-02" connection-mark=connmark_pppoe-02 \
    dst-address-type=!local in-interface-list=!WAN new-routing-mark=rtab_pppoe-02 passthrough=no


/ip/firewall/mangle/add action=mark-routing chain=output \
    comment="Routemark local out via PPPoE-01" connection-mark=connmark_pppoe-01 \
    dst-address-type=!local new-routing-mark=rtab_pppoe-01 passthrough=no
/ip/firewall/mangle/add action=mark-routing chain=output \
    comment="Routemark local out via PPPoE-02" connection-mark=connmark_pppoe-02 \
    dst-address-type=!local new-routing-mark=rtab_pppoe-02 passthrough=no

/interface/bridge/add name=bridge-loopback comment="Loopback interface for emergency routing"
/ip/route/add distance=254 gateway=bridge-loopback comment="Emergency route"

/ip/route/add comment="Unmarked via PPPoE-01" distance=1 gateway=pppoe-01
/ip/route/add comment="Unmarked via PPPoE-02" distance=2 gateway=pppoe-02

/ip route add comment="Marked via PPPoE-01 Main" distance=1 gateway=pppoe-01 routing-table=rtab_pppoe-01
/ip route add comment="Marked via PPPoE-01 Backup" distance=2 gateway=pppoe-02 routing-table=rtab_pppoe-01

/ip route add comment="Marked via PPPoE-02 Main" distance=1 gateway=pppoe-02 routing-table=rtab_pppoe-02
/ip route add comment="Marked via PPPoE-02 Backup" distance=2 gateway=pppoe-01 routing-table=rtab_pppoe-02


/ppp profile
add name=profile-pppoe-01 comment="Add/remove route rule for pppoe-01" on-down="/routing/rule/ remove [find comment=\"From PPPoE-01 IP to Inet\"]" on-up=":if [:tobool ([/routing/rule/ find comment=\"From PPPoE-01 IP to \
    Inet\"])] do={\r\
    \n  /routing/rule/ set [find comment=\"From PPPoE-01 IP to Inet\"] \\\r\
    \n    src-address=\$\"local-address\" table=rtab_pppoe-01} else={\r\
    \n  /routing/rule/ add action=lookup comment=\"From PPPoE-01 IP to Inet\" src-address=\$\"local-address\" table=rtab_pppoe-01 }"

/interface/pppoe-client/set pppoe-01 profile=profile-pppoe-01

/ppp profile
add name=profile-pppoe-02  comment="Add/remove route rule for pppoe-02" on-down="/routing/rule/ remove [find comment=\"From PPPoE-02 IP to Inet\"]" on-up=":if [:tobool ([/routing/rule/ find comment=\"From PPPoE-02 IP to \
    Inet\"])] do={\r\
    \n  /routing/rule/ set [find comment=\"From PPPoE-02 IP to Inet\"] \\\r\
    \n    src-address=\$\"local-address\" table=rtab_pppoe-02} else={\r\
    \n  /routing/rule/ add action=lookup comment=\"From PPPoE-02 IP to Inet\" src-address=\$\"local-address\" table=rtab_pppoe-02 }"

/interface/pppoe-client/set pppoe-02 profile=profile-pppoe-02

Kiến thức cơ bản về SAN – Phần 1: Lưu trữ & Quản lý Thông tin

Chào mọi người,


Hôm nay chúng ta sẽ có một cái nhìn tổng quan về Quản lý và Lưu trữ Thông tin (ISM) và biết về  các thành phần của hệ thống lưu trữ thông minh.

Giới thiệu cơ bản

Thông tin ngày càng quan trọng trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Chúng ta đã trở thành những người phụ thuộc vào thông tin của thế kỷ XXI, sống trong một thế giới theo lệnh, theo yêu cầu có nghĩa là chúng ta cần thông tin khi nào và ở đâu. Chúng ta truy cập Internet mỗi ngày để thực hiện tìm kiếm, tham gia vào mạng xã hội, gửi và nhận e-mail, chia sẻ hình ảnh và video cũng như điểm số của các ứng dụng khác. Tại đây chúng ta có thể tìm hiểu về những điều cơ bản của Thông tin, Sự phát triển của công nghệ Lưu trữ và Kiến trúc và các yếu tố cốt lõi của nó.

Dữ liệu là tập hợp các dữ kiện thô mà từ đó có thể rút ra kết luận. Các bức thư viết tay, một cuốn sách in, một bức ảnh gia đình, một bộ phim trên băng video, bản sao giấy tờ thế chấp được in và ký hợp lệ, sổ cái của ngân hàng và sổ tiết kiệm của chủ tài khoản đều là những ví dụ về dữ liệu.

Ngày nay, dữ liệu tương tự có thể được chuyển đổi thành các dạng tiện lợi hơn như tin nhắn e-mail, sách điện tử, hình ảnh được ánh xạ bit, hoặc phim kỹ thuật số. Dữ liệu này có thể được tạo bằng máy tính và được lưu trữ dưới dạng chuỗi 0s và 1s.

Các loại dữ liệu. Dữ liệu có hai loại.

Dữ liệu có cấu trúc:

Dữ liệu có cấu trúc được tổ chức thành các hàng và cột theo một định dạng được xác định chặt chẽ.

Dữ liệu không có cấu trúc:

Dữ liệu không có cấu trúc nếu các phần tử của nó không thể được lưu trữ trong các hàng và cột, và do đó rất khó để truy vấn và truy xuất bởi các ứng dụng kinh doanh. 

Ví dụ: Địa chỉ liên hệ của khách hàng có thể được lưu trữ dưới nhiều hình thức khác nhau như ghi chú dán, tin nhắn e-mail, danh thiếp hoặc thậm chí các tệp định dạng kỹ thuật số như .doc, .txt,và .pdf. Do tính chất phi cấu trúc của nó, rất khó để truy xuất bằng ứng dụng quản lý quan hệ khách hàng.

Thông tin

Dữ liệu, dù có cấu trúc hay không có cấu trúc, không đáp ứng bất kỳ mục đích nào cho cá nhân hoặc doanh nghiệp trừ khi nó được trình bày dưới dạng có ý nghĩa. Thông tin là trí tuệ và kiến ​​thức thu được từ dữ liệu.

Cơ sở hạ tầng Trung tâm Dữ liệu

Các tổ chức duy trì các trung tâm dữ liệu để cung cấp khả năng xử lý dữ liệu tập trung trong toàn doanh nghiệp. Trung tâm dữ liệu lưu trữ và quản lý một lượng lớn dữ liệu quan trọng. Cơ sở hạ tầng của trung tâm dữ liệu bao gồm máy tính, hệ thống lưu trữ, thiết bị mạng, dự phòng nguồn điện chuyên dụng và kiểm soát môi trường (chẳng hạn như điều hòa không khí và ngăn chặn hỏa hoạn)

Yếu tố cốt lõi

Năm yếu tố cốt lõi cần thiết cho chức năng cơ bản của trung tâm dữ liệu:

Ứng dụng: Ứng dụng là một chương trình máy tính cung cấp logic cho các hoạt động tính toán. Các ứng dụng, chẳng hạn như hệ thống xử lý đơn hàng, có thể được xếp lớp trên cơ sở dữ liệu, từ đó sử dụng các dịch vụ của hệ điều hành để thực hiện các thao tác đọc / ghi vào thiết bị lưu trữ.

Cơ sở dữ liệu: Thông thường hơn, hệ quản trị cơ sở dữ liệu (DBMS) cung cấp một cách có cấu trúc để lưu trữ dữ liệu trong các bảng được tổ chức hợp lý có liên quan với nhau. DBMS tối ưu hóa việc lưu trữ và truy xuất dữ liệu.

Máy chủ và hệ điều hành: Một nền tảng máy tính chạy các ứng dụng và cơ sở dữ liệu.

Mạng: Đường dẫn dữ liệu tạo điều kiện giao tiếp giữa máy khách và máy chủ hoặc giữa máy chủ và bộ lưu trữ .

Thiết bị lưu trữ: Một thiết bị lưu trữ dữ liệu liên tục cho những lần sử dụng tiếp theo.

Yêu cầu chính đối với các phần tử của trung tâm dữ liệu

Tính khả dụng: Tất cả các phần tử của trung tâm dữ liệu phải được thiết kế để đảm bảo khả năng truy cập. Việc người dùng không thể truy cập dữ liệu có thể có tác động tiêu cực đáng kể đến doanh nghiệp.

Bảo mật: Các chính sách, thủ tục và sự tích hợp thích hợp của các yếu tố cốt lõi của trung tâm dữ liệu sẽ ngăn chặn truy cập trái phép vào thông tin phải được thiết lập. Ngoài các biện pháp bảo mật để truy cập máy khách, các cơ chế cụ thể phải cho phép máy chủ chỉ truy cập vào các tài nguyên được phân bổ của chúng trên các mảng lưu trữ.

Khả năng mở rộng: Các hoạt động của trung tâm dữ liệu phải có thể phân bổ khả năng xử lý bổ sung hoặc lưu trữ theo yêu cầu mà không làm gián đoạn hoạt động kinh doanh. Tăng trưởng kinh doanh thường đòi hỏi phải triển khai thêm máy chủ, ứng dụng mới và cơ sở dữ liệu bổ sung. Giải pháp lưu trữ sẽ có thể phát triển cùng với doanh nghiệp.

Hiệu suất: Tất cả các yếu tố cốt lõi của trung tâm dữ liệu phải có thể cung cấp hiệu suất tối ưu và phục vụ tất cả các yêu cầu xử lý ở tốc độ cao. Cơ sở hạ tầng phải có thể hỗ trợ các yêu cầu về hiệu suất.

Tính toàn vẹn của dữ liệu: Tính toàn vẹn của dữ liệu đề cập đến các cơ chế như mã sửa lỗi hoặc bit chẵn lẻ đảm bảo rằng dữ liệu được ghi vào đĩa chính xác như khi nó được nhận. Bất kỳ sự thay đổi nào về dữ liệu trong quá trình truy xuất đều có nghĩa là bị hỏng, có thể ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức.

Dung lượng: Hoạt động của trung tâm dữ liệu yêu cầu đủ nguồn lực để lưu trữ và xử lý một lượng lớn dữ liệu một cách hiệu quả. Khi các yêu cầu về dung lượng tăng lên, trung tâm dữ liệu phải có khả năng cung cấp thêm dung lượng mà không làm gián đoạn tính khả dụng hoặc ít nhất là với sự gián đoạn tối thiểu. Năng lực có thể được quản lý bằng cách phân bổ lại các nguồn lực hiện có, thay vì bằng cách bổ sung các nguồn lực mới.

Khả năng quản lý: Một trung tâm dữ liệu phải thực hiện tất cả các hoạt động và hoạt động theo cách hiệu quả nhất.  Khả năng quản lý có thể đạt được thông qua tự động hóa và giảm sự can thiệp của con người (thủ công) vào các công việc chung.

Vòng đời thông tin 

Vòng đời thông tin là “ sự thay đổi giá trị của thông tin ” theo thời gian. Khi dữ liệu được tạo lần đầu tiên, nó thường có giá trị cao nhất và được sử dụng thường xuyên. Khi dữ liệu cũ đi, nó được truy cập ít thường xuyên hơn và có ít giá trị hơn đối với tổ chức. Hiểu được vòng đời thông tin giúp triển khai cơ sở hạ tầng lưu trữ thích hợp, theo giá trị thay đổi của thông tin.

Hướng dẫn về tốc độ khung hình trong camera giám sát (Frame rate in CCTV)

Đây là bài viết hướng dẫn chuyên sâu về tốc độ khung hình trong camrea giám sát. Đầu tiên, bạn cần phải biết tốc độ của vật thể, thông thường là con người.

Tốc độ của con người

Người di chuyển càng nhanh, bạn càng có nhiều cơ hội bỏ lỡ hành động, Bạn biết “tốc độ” của Frame rate là 1 khung hình / giây (1 fps), 10 khung hình / giây (10 fps), 25 khung hình/ giây (25 fps)… nhưng bạn cần tốc độ bao nhiêu khung hình để ghi hình tin cậy nhất.

Đây là cách mọi người di chuyển:

Đối với một người đi bộ, tốc độ bình thường thì thường là ~4 feet/s (khoảng 1,2 mét / giây) . Đây là video ghi lại người đi bộ bình thường 6 mét trong khoảng 5 giây:

Đối với một người đang chạy, chúng ta có video di chuyển 6 mét trong khoảng 1,25 giây, tức là anh ấy di chuyển với ~5 mét trong 1 giây:

Ví du: Nếu bạn chỉ có 1 khung hình/ giây (1 fps), một người có thể di chuyển từ 1,2 mét tới 4.8 mét trong khoảng thời gian đó. Vì thế chúng ta cần lưu ý điều này khi đánh giá lựa chọn tốc độ khung hình.

Trong hướng dẫn này, tôi xin đề cập đến:

  • Tốc độ mọi người di chuyển ra sao và làm thế nào để so sánh với tốc độ khung hình.
  • Đi bộ: Bạn có những rủi ro nào khi bắt hình một người đang đi bộ ở tốc độ 1, 10 và 30 khung hình / giây.
  • Chạy: Bạn đã nắm bắt được ai đang chạy ở tốc độ 1, 10 và 30 khung hình / giây.
  • Xoay đầu (ngó nghiêng): Bạn nhận mặt mũi rõ ràng của một người như thế nào ở 1, 10 và 30 khung hình / giây.
  • Chơi bài: Bạn không nắm bắt được thông tin gì về bài chơi ở mức 1, 10 và 30 khung hình / giây.
  • Tốc độ màn trập so với tốc độ khung hình: Cả hai có sự liên quan như thế nào?
  • Tỷ lệ băng thông so với khung: băng thông tăng với tăng tốc độ khung hình như thế nào?
  • Tỷ lệ khung hình trung bình được sử dụng: Trung bình trong camera giám sát là bao nhiêu?

Ví dụ đi bộ.

Khi người mẫu đi xuyên qua góc nhìn camera, chúng ta xem anh ấy chuyển từ khung này tới khung khác như thế nào. Trong luồng video 30 fps và 10 fps, anh ấy không hoàn thành một bước đi đầy đủ. Tuy nhiên, trong ví dụ 1fps, anh ta đã tiến tới ~1,2 mét giữa các khung hình, và phù hợp với tốc độ đi bộ của chúng ta đo được ~1,2 mét / giây.

Ví dụ khi chạy.

Khi người mẫu chạy qua góc nhìn camera, luồng 30 fps vẫn bắt kịp anh ta, trong khi ở luồng 10 khung hình / giây, anh ấy đã đi ~0,3 mét giữa các khung. Trong ví dụ 1 fps, chỉ có một khung của đối tượng bị bắt, với góc nhìn của camera giữa các khung, chỉ với chân sau của người mẫu có thể nhìn thấy trong khung thứ hai.

Chụp khuôn mặt

Cố gắng để có được một khuôn mặt rõ ràng có thể khó khăn khi mọi người di chuyển bởi vì họ tự nhiên xoay đầu của họ thường xuyên. Trong video này, chúng ta có người mẫu vừa đi bộ ở hành lang vừa  lắc đầu với tốc độ khung hình khác nhau.
Hãy xem:

Chú ý, ở tốc độ 1 khung hình / giây, chỉ có một cú đánh đầu rõ ràng là bị bắt, nhưng ở tốc độ 10 khung hình / giây, bạn sẽ có nhiều hơn thế. Cuối cùng, ở tốc độ 30 khung hình / giây, bạn có thể nhận được một hoặc hai lần, nhưng không cải thiện nhiều.

Chơi bài

Trong bài kiểm tra này, chủ đề của chúng ta là xử lý một loạt các lá bài từ Át (ace) đến năm với máy ảnh được đặt thành tốc độ màn trập  (shutter) mặc định (1/30).

Trong các ví dụ 30 và 10 fps, chúng ta có thể thấy mỗi lá khi nó được lấy ra từ phía trên bộ bài và đặt trên bàn. Tuy nhiên, trong ví dụ 1 fps, chúng ta chỉ thấy các thẻ xuất hiện trên bàn, không phải là chuyển động của người chơi, vì tốc độ khung hình quá thấp.

Tốc độ màn trập (Shutter) so với tốc độ khung hình (Frame rate)

Tốc độ khung hình không làm mờ hình ảnh. Đây là một quan niệm sai lầm. Điều khiển tốc độ màn trập tự động của camera.

Xử lý thẻ Át thông qua 5 lần nữa, chúng tôi tăng tốc độ màn trập tối thiểu của camera lên 1/4000 giây. Hình ảnh dưới đây so sánh hình ảnh mờ trong tay người chơi và lá bài, với 2 lá bài dễ dàng hơn nhiều trong ví dụ tốc độ màn trập nhanh.

1 / 4000s tốc độ màn trập hoàn toàn loại bỏ tất cả các dấu vết của mờ nhòa hình ảnh. 1/1000 và 1/2000 tốc độ màn trập lần thứ hai làm giảm đáng kể độ mờ, nhưng vẫn có thể thấy được xung quanh tay người chơi và các cạnh của lá bài khi xem khung ghi theo từng khung.
Nếu bạn bị mờ, bạn có vấn đề cấu hình tốc độ màn trập, chứ không phải tốc độ khung hình.

Tốc độ màn trập (Shutter) chậm và Tốc độ khung hình (Frame Rate)

Mặt khác, đôi khi người dùng muốn hoặc nhà sản xuất camera mặc định màn trập tối đa của họ với tốc độ chậm hơn tốc độ khung hình (ví dụ, màn trập 1/4 cho máy ảnh 1/30 giây). Không chỉ gây ra sự mờ của các đối tượng di chuyển , bạn sẽ mất khung hình.
Bài học chính: Tỷ lệ khung hình mỗi giây không bao giờ cao hơn số lần phơi sáng trên mỗi giây (tốc độ màn trập – Shutter). Nếu bạn có màn trập 1 / 4s, màn trập / phơi sáng chỉ mở và đóng 4 lần / giây (tức là 1 / 4s + 1 / 4s + 1 / 4s + 1 / 4s = 1s). Vì điều này chỉ xảy ra 4 lần, bạn chỉ có thể có 4 khung trong giây đó.
Một số nhà sản xuất làm giả khung hình với màn trập chậm, chỉ cần sao chép cùng một khung hình nhiều lần. Ví dụ: nếu bạn có màn trập 1/15, bạn chỉ có thể có 15 lần chụp, và do đó, 15 khung hình. Để làm cho nó có vẻ như bạn có 30 khung hình, mỗi khung có thể được gửi hai lần liên tiếp.
Hãy cẩn thận với màn trập chậm. Ngoài việc mờ, bạn có thể bị mất khung hoặc bộ nhớ bị rác.

Tỷ lệ băng thông so với khung hình

Tỷ lệ khung ảnh hưởng đến băng thông, nhưng đối với các chuẩn nén hiện đại, như H.264, nó ít tỷ lệ thuận hơn. Vì vậy, nếu bạn tăng tốc độ khung hình lên 10x, băng thông tăng có thể sẽ thấp hơn nhiều, thường chỉ có từ 3 đến 5 lần băng thông. Đây là điều chúng tôi thấy thường xuyên bị nhầm lẫn trong ngành CCTV.
Lý do của việc này là nén liên khung, làm giảm nhu cầu băng thông cho các phần của cảnh mà vẫn giữ nguyên trên các khung hình
Minh hoạ thêm điểm này, chúng tôi đã đo 30, 10 và 1 fps để chứng minh sự thay đổi tốc độ bit trong một thiết lập kiểm soát trong phòng thí nghiệm của chúng tôi. Bitrate trung bình như sau:

  • 1 fps là 0.179 Mb / s
  • 10 khung hình / giây, với 10x khung hình, tiêu thụ băng thông 4x nhiều hơn 1 khung hình / giây (0.693 Mb / s)
  • 30 khung hình / giây, với 3x khung hình, tiêu thụ gấp đôi băng thông 10 khung hình / giây và với 30x khung, 7x băng thông 1fps (1.299 Mb / s)

Các phép đo này được thực hiện với 1 I frame trên giây, thiết lập phổ biến nhất trong camera giám sát chuyên nghiệp

Tỷ lệ khung trung bình được sử dụng

Tỷ lệ khung hình ngành công nghiệp trung bình là ~ 10 khung hình / giây, phản ánh mức độ này cung cấp đủ khung để nắm bắt hầu hết các hành động một cách chi tiết đồng thời giảm thiểu chi phí lưu trữ.

Như được hiển thị trong phần trước, đi từ 10fps đến 30fps có thể tăng gấp đôi chi phí lưu trữ nhưng chỉ cải thiện được ít chi tiết.

Juniper EX4300 Series – Configuration Template

As promised here’s the current template I’m using to configure the Juniper EX4300 series switches in my environment. Please feel free to provide corrections or updates based on your own experiences.

We’ll touch on the following configuration topics; OSPF, VLANs, DHCP relay, DHCP snooping, MAC limiting, rate limiting, BFD, TACACS+, SYSLOG, SNMP, RSTP, and BPDU filtering(blocking).

Let’s start by setting the hostname of the switch and the timezone.

set system host-name B99-SW01-EAST
set system time-zone America/New_York

Let’s set the root password, we’ll also add an ‘admin’ user later.

set system root-authentication plain-text-password 
{enter local root password}
{confirm local root password}

In this case I’m using TAC_PLUS so let’s configure TACACS+ authentication. In the example below X.X.X.X is the IP address of your our TACACS+ server and Y.Y.Y.Y is the management IP address of loopback address of the switch itself.

set system tacplus-server X.X.X.X
set system tacplus-server X.X.X.X secret tac_plus_shared_secret_here
set system tacplus-server X.X.X.X single-connection
set system tacplus-server X.X.X.X source-address Y.Y.Y.Y

Let’s change the order of the authentication sources, making TACACS+ the first choice.

Continue reading “Juniper EX4300 Series – Configuration Template”

Tiêu chuẩn suy hao mối hàn cáp quang

Tiêu chuẩn quốc gia – Tiêu chuẩn suy hao mối hàn cáp quang

TCVN 8665:2011 chuyển đổi từ TCN 68-160:1996 thành Tiêu chuẩn Quốc gia theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật và điểm a khoản 1 Điều 6 Nghị định số 127/2007/NĐ-CP ngày 1/8/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật.

TCVN 8665:2011 được xây dựng trên cơ sở Khuyến nghị G.651.1 (07/2007), G.652 (11/2009), G.653 (07/2010), G.655 (11/2009) của Liên minh Viễn thông Thế giới ITU-T.

TCVN 8665:2011 do Viện Khoa học Kỹ thuật Bưu điện biên soạn, Bộ Thông tin và Truyền thông đề nghị, Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng thẩm định, Bộ Khoa học và Công nghệ công bố.

Các bạn có thể tải file về xem rất chi tiết và đầy đủ nhé:

Một số mức suy hao cho phép:

Dưới đây là các thông số tiêu chuẩn để đánh giá của một tuyến cáp quang

  • Quỹ công suất toàn tuyến (Switch to Switch): 28dBm
  • Suy hao toàn tuyến: yêu cầu <28dBm (khuyến cáo nên <25dBm, 3dBm dự phòng công suất suy giảm theo thời gian.
  • Mức phát của OLT là +3dBm +-2

Suy hao cho phép: cáp quang, mối hàn, đầu nối connector:

Về lý thuyết:

  • Suy hao cáp quang cho phép ở bước sóng 850nm: 3.5dBm/km (Cáp quang MM)
  • Suy hao cáp quang cho phép ở bước sóng 1300nm: 1.0dBm/km (Cáp quang MM)
  • Suy hao cáp quang cho phép ở bước sóng 1310nm: 0.35dBm/km (Cáp quang SM)
  • Suy hao cáp quang cho phép ở bước sóng 1550nm: 0.22dBm/km (Cáp quang SM)
  • Suy hao mối hàn cáp quang <0.1dBm (Thực tế suy hao < 0.05dBm)
  • Các suy hao do đầu nối connector: <0.5dBm (Đối với loại đầu nối SC/APC suy hao là 0.35dBm)

Tiếp theo mình sẽ hướng dẫn các bạn 2 phương pháp đo suy hao cáp quang:

1. Đo suy hao quang bằng máy đo công suất

1.1. Mục đích

Việc đo suy hao quang bằng máy đo công suất được sử dụng để xác định chính xác suy hao của cáp sợi quang.

Phương pháp đo suy hao quang bằng máy đo công suất quang sử dụng phương pháp đo suy hao xen.

1.2. Điều kiện đo

Dưới đây là những thiết bị cần để đo:

  1. Máy đo công suất quang.
  2. Nguồn sáng quang (có thể dùng converter, module quang (SFP)…)
  3. 02 bộ đầu nối (adapter).
  4. 02 dây nối (có đường kính lõi và vỏ giống như sợi cần đo).

1.3. Tiến hành đo

Bước 1: đặt tham chiếu.

Thiết lập đo

Quy trình:

– Đấu mỗi máy đo công suất và nguồn sáng với 1 dây nối và liên kết lại bằng 1 bộ nối (Hình 1.1);

– Bật nguồn máy đo công suất quang (để ở chế độ cần đo);

– Bật nguồn quang hiển thị là giá trị tuyệt đối (dBm);

– Thiết lập giá trị tuyệt đối này về giá trị tham chiếu và hiển thị giá trị tương đối (dB).

Bước 2: đo suy hao sợi quang sử dụng phương pháp đo suy hao xen.

Thiết lập đo:

Quy trình:

– Tháo một trong các dây nối, nối sợi quang cần đo vào như Hình 1.2.

– Giá trị hiển thị trên máy đo là suy hao xen của sợi quang cần đo.

2. Đo suy hao quang bằng máy đo phản xạ quang OTDR

2.1. Mục đích

Phương pháp đo suy hao bằng máy đo OTDR cáp quang sử dụng phương pháp đo suy hao phản xạ trở về.

Phương pháp này cho phép đánh giá suy hao trở về bằng đo công suất phản xạ của sợi quang.

2.2. Điều kiện đo

Máy đo OTDR

Các dây nối và phụ kiện:

  • Các bộ nối thích hợp;
  • Bộ ghép sợi quang;
  • Chất lỏng làm phù hợp chiết suất sợi;
  • Dao cắt sợi quang;
  • Kìm tuốt vỏ cáp và sợi quang;
  • Cuộn sợi đệm.

Trước khi tiến hành các phép đo bằng OTDR, cần phải kiểm tra máy OTDR đó để đảm bảo rằng nó có đủ khả năng đo toàn bộ chiều dài sợi quang hay không. Chiều dài tổng của cáp sợi quang được đo cần ngắn hơn phạm vi này.

2.3. Tiến hành đo

Dưới đây là các bước cần được tiến hành để thực hiện một phép đo bằng OTDR:

1. Nếu sợi quang cần đo không được nối với bộ nối, bóc cáp sợi quang ra và để cho sợi quang lộ ra khoảng 2m. Làm sạch và cắt sợi này.

2. Nối máy OTDR với sợi quang trên bằng một dây nối, cuộn sợi đệm (nếu được yêu cầu) và bộ chuyển đổi sợi quang trần (xem Hình 2.1). Nếu sợi quang đó được nối với bộ nối, thì nối máy OTDR với sợi đó bằng một dây nối và cuộn sợi đệm (nếu được yêu cầu). Cuộn sợi đệm là cuộn sợi quang trần nhỏ có độ dài sợi khoảng 1km, có thể cuộn được trên một lô nhỏ. Nó được sử dụng cho OTDR để loại vùng chết của OTDR. Vì thế sợi quang dùng làm cuộn đệm không được có bất kỳ sự dị thường nào.

3. Bật nguồn OTDR.

4. Thiết lập chế độ ứng với các tham số hoạt động thích hợp của OTDR, bao gồm bước sóng, chiết suất của sợi quang được đo và chế độ quét và phân giải của màn hiển thị.

5. Điều chỉnh độ phân giải của màn hiển thị để hiển thị toàn bộ sợi quang được đo.

6. Đo suy hao của tất cả các điểm dị thường, các mối hàn, các bộ nối và toàn bộ sợi quang.

7. Đo suy hao 2 điểm đầu-cuối của sợi quang.

8. Lặp lại tất cả các bước từ 1 đến 7 cho tất cả các bước sóng yêu cầu.

9. Ghi lại vị trí của OTDR cho những phép đo này.

10. Lặp lại các bước từ 1 đến 9 với máy đo OTDR được nối vào đầu kia của sợi quang. Sau đó tính giá trị trung bình của hai kết quả thu được. Nó sẽ cho ra một giá trị chính xác hơn:

Tổn haoOTDR = (Tổn haohướng A + Tổn haohướng B)/2

Hướng dẫn sử dụng iperf

1. Một số tham số phổ biến của iperf

Tham số Tác dụng
-c chỉ ra địa chỉ IP của server để iperf kết nối đến
-f, –format Chỉ ra định dạng của kết quả hiển thị. ‘b’ = bps, ‘B’ = Bps, ‘k’ = Kbps, ‘K’ = KBps,…
-i, –interval Thời gian lấy mẫu để hiển thị kết quả tại thời điểm đó ra màn hình
-p, –port Định ra cổng để nghe, mặc định nếu không sử dụng tham số này là cổng 5001
-u, –udp Sử dụng giao thức UDP, mặc định iperf sử dụng TCP
-P, –parallel Chỉ ra số kết nối song song được tạo, nếu là Server mode thì đây là giới hạn số kết nối mà server chấp nhận
-b Định ra băng thông tối ta có thể truyền, chỉ sử dụng với UDP, client mode
-t Tổng thời gian của kết nối, tính bằng giây
-M Max segment size
-l Buffer size
-w, –window Trường Windows size của TCP

2. Thực hiện các bài test với IPerf

Mô hình chung

Để kiểm tra băng thông của mạng ta có thể sử dụng một trong hai giao thức TCP hoặc UDP, nhưng điểm chung giữa hai phương pháp này là đều cần 1 máy làm server để lắng nghe, một máy client kết nối đến giống như hình trên. IPerf sẽ tính toán và đưa ra được băng thông của mạng giữa Server và client.

Sử dụng TCP

Cả máy server và client đều cần cài iperf. Nếu sử dụng tham số cổng (-p) thì trên cả Server và client đều phải giống cổng nhau.

  • Ví dụ một bài test đơn giản

Server:

iperf -s

Client:

iperf -c ip-server

Sau 10 giây kết quả sẽ trả về trên màn hình.

  • Ví dụ bài test TCP với Buffer size: 16 MB, Window Size: 60 Mbps, Max segment size 5 trong thời gian 5 phút, kết quả hiển thị dưới dạng mbps

Server:

iperf -s -P 0 -i 1 -p 5001 -w 60.0m -l 16.0M -f m

Client:

iperf -c ip-server -i 1 -p 5001 -w 60.0m -M 1.0K -l 16.0M -f m -t 300

Sử dụng UDP

  • Ví dụ một bài test đơn giản

Server:

iperf -s -u

Client:

iperf -c ip-server -u

Sau 10 giây kết quả sẽ trả về trên màn hình.

  • Ví dụ bài test UDP với Bandwidth 600 Mbps Packet size 500 Bytes trong 300s

Server:

iperf -s -u -P 0 -i 1 -p 5001 -f m

Client:

iperf -c ip-server -u -i 1 -p 5001 -l 500B -f m -b 600m -t 300
  • Kiểm tra tốc độ của một cổng mạng

Để làm việc này ta có thể đẩy tải liên lục bằng UDP tại máy chủ, do UDP truyền file mà không cần phải bắt tay 3 bước như TCP nên ta có thể đẩy UDP liên lục từ client, thay đổi băng thông và quan sát băng thông tối đa mà nó đạt được, đó cũng chính là giới hạn của card mạng.

Giả sử có một máy chủ card eth0 có ip 10.10.10.10 và tôi muốn kiểm tra xem tốc độ eth0 tối đa là bao nhiêu, tôi thực hiện như sau:

iperf -c 10.10.10.1 -u -b 100m -t 100 -i 1
iperf -c 10.10.10.1 -u -b 500m -t 100 -i 1
iperf -c 10.10.10.1 -u -b 1g -t 100 -i 1
iperf -c 10.10.10.1 -u -b 2g -t 100 -i 1

Quan sát kết quả thu được, lấy giá trị băng thông cao nhất do tham số -b là giới hạn băng thông UDP, nên ta có thể tăng giới hạn này lên để xác định tốc độ thật của card.

Một số đại lượng vật lý liên quan đến tần số vô tuyến

dBm

dBm là đơn vị để đo công suất (công suất tuyệt đối), m viết tắt của milliwatt.

dBm được tính dựa trên sự so sánh công suất cần tính (đo bằng mW) với 1 mW.

Công thức tính:

dBm = 10 x log 10 (P/1mW)

Tương đương

dBm = 10 x log 10 (P)

Trong đó P là công suất, đơn vị là mW.

Ví dụ biết công suất đo bằng milliwatt là 30 mW, có thể đổi sang đơn vị dBm bằng công thức:

10 x log10(30) = 14.77 dBm

Có thể làm tròn thành 15 dBm.

Bảng sau cho biết một số giá trị chuyển đổi giữa mW và dBm (đã được làm tròn).

mW dBm
1 0.00
10 10.00
20 13.01
30 14.77
40 16.02
50 16.99
100 20.00
1000 30.00
4000 36.02

Ưu điểm của việc sử dụng đơn vị dBm so với sử dụng mW là khả năng tính toán đơn giản dựa trên phép cộng và trừ dB thay vì phép nhân và phép chia giữa các số quá lớn và các số quá nhỏ.

Ví dụ, công suất tín hiệu của một thiết bị là 14.77 dBm (tương đương 30 mW), thực hiện khuếch đại tín hiệu này lên 6 dB. Có thể dễ dàng tính được công suất tín hiệu sau khi được khuếch đại là 20.77 dBm. Ngoài ra, nếu dựa trên quy tắc số 10 và số 3, ta có:

30 mW + 6 dB

Tương đương

30 mW + 3 dB + 3 dB = 120 mW

Chú ý: 20.77 dBm tương đương 119,4 mW, giá trị này xấp xỉ với giá trị đúng là 120 mW.

Bảng sau cung cấp một số giá trị chuyển đổi giữa mW và dBm.

dBm Watt dBm Watt dBm Watt
0 1.0 mW 16 40 mW 32 1.6 W
1 1.3 mW 17 50 mW 33 2.0 W
2 1.6 mW 18 63 mW 34 2.5 W
3 2.0 mW 19 79 mW 35 3 W
4 2.5 mW 20 100 mW 36 4 W
5 3.2 mW 21 126 mW 37 5 W
6 4 mW 22 158 mW 38 6 W
7 5 mW 23 200 mW 39 8 W
8 6 mW 24 250 mW 40 10 W
9 8 mW 25 316 mW 41 13 W
10 10 mW 26 398 mW 42 16 W
11 13 mW 27 500 mW 43 20 W
12 16 mW 28 630 mW 44 25 W
13 20 mW 29 800 mW 45 32 W
14 25 mW 30 1.0 W 46 40 W
15 32 mW 31 1.3 W 47 50 W

 

dBi

dBi là đơn vị đo độ lợi công suất của anten RF. Được tính bằng cách so sánh độ lợi của anten cần đo với công suất phát lý tưởng của một anten đẳng hướng. Anten đẳng hướng này là một anten lý tưởng, nghĩa là nó có thể phát ở mức công suất như nhau theo mọi hướng trong không gian. Anten lý tưởng này không tồn tại trong thực tế. Chữ i trong dBi là viết tắt của từ isotropic (đẳng hướng).

Chú ý, dBi được sử dụng để đo độ lợi công suất có hướng của anten, cụ thể, dBi được tính toán dựa vào công suất đầu vào của anten và công suất phát thực tế theo hướng truyền tín hiệu RF.

dBd

Tương tự dBi, dBd cũng được sử dụng để đo độ lợi công suất có hướng của anten. Trong khi dBi được tính toán bằng cách so sánh độ lợi có hướng với anten đẳng hướng, thì dBi được tính toán bằng cách so sánh độ lợi có hướng với anten lưỡng cực. Chữ d là viết tắt của dipole.

Sự khác nhau giữa dBi và dBd? Vì giá trị dBd được tính dựa trên độ lợi công suất của anten lưỡng cực, mà độ lợi công suất của anten lưỡng cực là 2.14 dBi (được tính dựa trên công suất phát của anten đẳng hướng). Do đó, một anten với độ lợi tính bằng dBd là 7 dBd, thì sẽ có độ lợi tính bằng dBi là 9.14 dBi. Nói tóm lại, muốn đổi từ đơn vị dBd sang dBi chỉ cần cộng thêm 2.14, và ngược lại đổi từ dBi sang dBd chỉ cần trừ đi 2.14. Nghĩa là 0 dBd = 2.14 dBi.

SNR

Nhiễu nền (hay nhiễu nền RF), được gây ra bởi các hệ thống khác hoặc các hoạt động của tự nhiên, tạo ra năng lượng trong dải tần số điện từ.

SNR (signal-to-noise ratio) là tỉ số tín hiệu trên nhiễu. SNR là tỉ số giữa công suất của tín hiệu RF và công suất của nhiễu nền.

Để dễ hiểu, hãy tưởng tượng khi bạn ở trong một phòng họp lớn. Ở đó có rất nhiều người đang cùng trao đổi với nhau, bây giờ, bạn muốn nói một điều gì đó cho tất cả mọi người đều nghe được, bạn dùng hai bàn tay tạo thành hình cái loa, đưa lên miệng và nói lớn. Trong tình huống này, âm thanh trao đổi của mọi người trong phòng chính là nhiễu nền, và tiếng nói của bạn chính là âm thanh hoặc thông tin quan trọng cần tuyền. SNR trong tình huống này là tỉ lệ giữa âm thanh của bạn và âm thanh do các trao đổi của mọi người.

Trong các hệ thống WLAN, SNR là một độ đo rất quan trọng. Nếu công suất của nhiễu nền quá gần với công suất của tín hiệu thu (tại thiết bị thu), sẽ làm sai lệch tín hiệu hoặc thậm chí không thể phát hiện và thu nhận được tín hiệu tại thiết bị thu. Thiết bị thu không thể phát hiện và thu nhận được tín hiệu khi công suất của nhiễu điện từ trong môi trường truyền cao hơn công suất của tín hiệu thu. Quay lại ví dụ về âm thanh ở trên,  Khi bạn cố gắng nói lớn trong một phòng có rất nhiều người cũng đang nói lớn, thì cái “nói lớn” của bạn cũng chẳng có ý nghĩa gì, tuy nhiên, nếu bạn nói lớn trong một phòng cũng có rất nhiều người đang nói thầm (hoặc rất nhỏ) thì cái “nói lớn” của bạn sẽ có ý nghĩa hơn. Trong tình huống này không phải bạn nói lớn hơn mà là do “nhiễu nền” đã bị mất đi (hoặc đã giảm đi rất nhiều). Tín hiệu RF cũng bị ảnh hưởng bởi môi trường xung quanh theo cách giống như vậy.

RSSI

RSSI (received signal strength indicator), chỉ số cường độ tín hiệu thu, là chỉ số để đo độ mạnh của tín hiệu tại thiết bị thu (ví dụ anten), được định nghĩa trong chuẩn IEEE 802.11. Giá trị RSSI càng lớn, độ mạnh của tín hiệu càng lớn. Chỉ số RSSI không sử dụng đơn vị đo và miền giá trị cụ thể, IEEE 802.11 cũng không định nghĩa việc chuyển đổi giữa chỉ số RSSI với các đơn vị tính công suất khác như mW hoặc dBm.

Cisco sử dụng các giá trị từ 0 tới 100 để đo chỉ số RSSI trên các thiết bị. Trong khi Atheros sử dụng các giá trị từ 0 tới 60. Do vậy, nếu chỉ dựa vào giá trị RSSI của thiết bị người dùng sẽ không thấy được “độ mạnh” của các thiết bị, nên các ứng dụng thường chuyển các giá trị RSSI này sang dạng phần trăm.

Ví dụ, một cạc mạng của Atheros thông báo cường độ của tín hiệu đo bằng chỉ số RSSI là 47, dựa vào giá trị này phần mềm ứng dụng sẽ tính toán để chuyển giá trị này sang dạng phần trăm:

47/60 x 100 = 78.3 % so với cường độ tín hiệu cao nhất

Bằng cách nào phần mềm ứng dụng biết được được giá trị lớn nhất của chỉ số RSSI là 60 (với thiết bị của Atheros)? Trong chuẩn của IEEE đã quy định tham số RSSI_MAX là giá trị RSSI lớn nhất. Các nhà sản xuất thường chọn chỉ số RSSI bằng 0 để biểu thị cường độ của một tín hiệu thấp hơn ngưỡng nhận tín hiệu của thiết bị.

Giá trị RSSI_MAX của mỗi nhà sản xuất là khác nhau, ví dụ, Cisco là 100, Atheros là 60.

Các nhà sản xuất cũng tự đưa ra quy định để chuyển đổi giữa cường độ công suất tính bằng dBm sang chỉ số RSSI. Như vậy, từ chỉ số RSSI_MAX của các nhà sản xuất khi chuyển sang dạng dBm sẽ có giá trị khác nhau, kết quả là, một thiết bị có thể thông báo cường độ tín hiệu là 100% nhưng có thể cường độ tín hiệu này (tính bằng dBm) sẽ thấp hơn một thiết bị của hãng khác cũng thông báo cường độ tín hiệu đạt 100%.

Ví dụ, có hai nhà sản xuất A và B, cả hai đều chọn chỉ số RSSI bằng 100 là RSSI_MAX. Tuy nhiên, A quy ước chỉ số RSSI = 100 tương ứng với công suất -12 dBm, B quy ước RSSI = 100 tương ứng với công suất -15 dBm. Giả sử cứ giảm 0.7 dBm công suất, thì chỉ số RSSI sẽ giảm đi 1 đơn vị. Xem xét trường hợp thiết bị của nhà sản xuất A giảm chỉ số RSSI xuống 4 đơn vị, khi đó chỉ số RSSI = 96, tương đương cường độ tín hiệu còn 96 %. Tới đây bạn không thể khẳng định thiết bị của nhà sản xuất B có hiệu suất cao hơn thiết bị của nhà sản xuất A vì thiết bị của B có chỉ số phần trăm cường độ tín hiệu cao hơn của A.

Nếu muốn so sánh cường độ tín hiệu dựa trên chỉ số RSSI, nên thực hiện so sánh trên các thiết bị của cùng một nhà sản xuất.

Chỉ số RSSI cũng được thiết bị thu sử dụng để làm giá trị ngưỡng trong việc quyết định kết nối và ngắt kết nối giữa các kênh, các mạng không dây.

Những nguyên nhân có thể gây ra lỗi cho hệ thống cáp mạng

Khi tiến hành đo kiểm chất lượng một hệ thống mạng, chúng ta thường bắt gặp các thông số về lỗi như lỗi đấu dây ( wiremap), suy hao, nhiễu,… Xác định nguyên nhân gây ra lỗi để có cách khắc phục hiệu quả, kịp thời thì tiêu tốn khá nhiều thời gian của người thi công. Bảng tóm tắt dưới đây sẽ giúp người đọc tiết kiệm thời gian cho việc xác định nguyên nhân gây ra một số lỗi phổ biến cho hệ thống cáp mạng.

Lỗi về đấu dây:

Kết quả Những nguyên nhân có thể gây ra lỗi
Lỗi hở mạch – Open
  • Dây dẫn bị hư hỏng do uốn cong tại những điểm kết nối.
  • Thao tác bấm đầu chưa chính xác.
  • Đầu connector bị hư.
  • Cáp bị đứt ( cáp không đạt tiêu chuẩn).
  • Dây dẫn kết nối sai chân tại đầu connector.
  • Sử dụng sai đôi dây cho ứng dụng cụ thể ( Ethernet chỉ sử dụng 2 cặp là 12 và 36)
Lỗi ngắn mạch – Short
  • Bấm đầu không đúng cách.
  • Đầu connector bị hư.
  • 2 dây dẫn đưa vào cùng 1 khe trong đầu connector khi thực hiện thao tác bấm đầu.
  • Cáp bị đứt ( cáp không đạt tiêu chuẩn).
  • Sử dụng sai đôi dây cho những ứng dụng cụ thể.
Lỗi đảo ngược đôi dây – Align Reversed Pair
  • Dây dẫn kết nối sai chân tại đầu connector ( hai dây dẫn trong cùng một đôi dây được kết nối nhầm vị trí tại đầu connector).
Lỗi chéo đôi dây – Cross Pair
  • Nhầm lẫn giữa bấm đầu theo hai chuẩn 568A và 568B.
  • Vị trí đôi dây 12 và 36 bị chéo nhau.
Lỗi tách đôi dây – Split Pair
  • Một dây của đôi dây này nhầm vị trí với một dây của đôi dây khác

Lỗi về chiều dài cáp – Length:

Kết quả Những nguyên nhân có thể gây ra lỗi
Lỗi về chiều dài cáp – Length Exceeds Limits
  • Cáp sử dụng cho một đường truyền quá dài ( ví dụ giới hạn cho chiều dài 1 đường cáp ngang là không vượt quá 90m, để đảm bảo việc truyền tín hiệu trên đường dây).
  • Việc cài đặt thông số NVP trước khi tiến hành đo kiểm không chính xác. ( NVP là tốc độ danh định của tín hiệu truyền trên một sợi cáp. Với mỗi loại cáp thì có một thông số NVP nhất định)
Lỗi về chiều dài cáp đo được ngắn hơn chiều dài cáp thực tế kéo khi thi công
  • Cáp bị đứt ở đoạn giữa trên đường kéo cáp.
Một hoặc nhiều đôi dây có chiều dài ngắn hơn chiều dài cáp
  • Cáp bị đứt trên đường đi cáp.
  • Kết nối xấu.

Chú ý: Chiều dài của cáp sẽ được tính bằng chiều dài của đôi dây có chiều dài ngắn nhất trong cáp. Thông số NVP là khác nhau với mỗi đôi dây.

Lỗi Trễ Truyền – Delay Skew

Kết quả Nguyên nhân có thể gây ra lỗi
Vượt quá giới hạn cho phép – Exceeds Limits
  • Đường đi cáp quá dài.
  • Cáp không đạt tiêu chuẩn ( chất liệu cấu tạo nên sợi cáp không nguyên chất và khác nhau giữa từng đôi dây)

Suy Hao – Attenuation

Kết quả Nguyên nhân có thể gây ra lỗi
Vượt quá giới hạn cho phép – Exceeds Limits
  • Đường đi cáp quá dài.
  • Cáp không đạt tiêu chuẩn ( độ xoắn của các đôi dây không đạt,..)
  • Sử dụng loại cáp không phù hợp ( ví dụ dùng cáp cat3 cho ứng dụng dành cho cáp cat5 trở lên)
  • Việc cài đặt các thông số trước khi tiến hành đo kiểm không chính xác.

Lỗi về Nhiễu Đầu Gần và Tổng Nhiễu Đầu Gần ( NEXT and PSNEXT)

Kết quả Nguyên nhân có thể gây ra lỗi
Fail, *fail or *pass
  • Tháo xoắn quá mức khi thực hiện thao tác bấm đầu.
  • Patch Cord không đạt tiêu chuẩn.
  • Đầu connector không đạt chuẩn.
  • Cáp giả.
  • Lỗi tách đôi dây trong quá trình bấm đầu cáp..
  • Các đôi dây bị nén quá chặt do lớp vỏ bọc nhựa của cáp.
  • Cáp đặt cạnh nguồn gây nhiễu lớn

Suy Hao Phản Xạ Ngược ( Return Loss)

Kết quả Nguyên nhân có thể gây ra lỗi
Fail, *fail or *pass
  • Trở kháng của Patch Cord không đạt/ vượt quá 100 Ohm.
  • Patch Cord sử dụng không đúng cách làm cho trở kháng vượt quá/ không đạt 100 Ohm.
  • Thao tác khi tiến hành thi công cáp ( việc tháo xoắn các đôi dây).
  • Chừa đoạn dây dư quá dài tại outlet ( khuyến cáo nên chỉ để lại đoạn dây dư khoảng 30 cm).
  • Đầu connector không đạt chuẩn.
  • Trở kháng trên sợi cáp không đồng đều.
  • Trở kháng của sợi cáp vượt quá/ không đạt 100 Ohm.
  • Trở kháng khác nhau giữa patch cord và cáp ngang tại điểm đấu nối.
  • Tính tương thích giữa đầu connector và jack kém
  • Sử dụng cáp có trở kháng 120 Ohm.
  • Lựa chọn chế độ test tự động không chính xác.
  • Sai sót trong việc lựa chọn adapter.

Nhiễu Đầu Xa, Tổng Nhiễu Đầu Xa ( ACR-F & PS ACR-F hoặc ELFEXT & PSELFEXT)

Kết quả Nguyên nhân có thể gây ra lỗi
Fail, *fail or *pass
  • Qui tắc chung: phải khắc phục lỗi về NEXT trước. Vì NEXT thường là nguyên nhân gây ra FEXT
  • Cáp bị bó chặt trong quá trình thi công.

Điện Trở ( Resistance)

Kết quả Nguyên nhân có thể gây ra lỗi
Fail, *fail or *pass
  • Đường đi cáp vượt quá giới hạn cho phép.
  • Đầu connector kém vì bị oxy hóa.
  • Sự tiếp xúc giữa các đôi dây và đầu connector kém vì dây dẫn quá bé.
  • Cáp không đạt chuẩn ( độ dày cáp không đạt chuẩn).
  • Lựa chọn sai loại patch cord.

Nắm được những nguyên nhân có thể gây ra lỗi cho hệ thống mạng không những giúp người thi công tiết kiệm được thời gian trong khâu giải quyết, khắc phục lỗi hệ thống mạng mà ngoài ra còn hạn chế được những sai sót trong quá trình thi công để có một hệ thống mạng hoàn chỉnh, đạt tiêu chuẩn.

Alcatel omniswitch commands

These commands are for R6 & R7

——- general ———
ip interface vlan223 address 172.22.23.2 mask 255.255.255.0 admin-state enable vlan 223
ip interface vlan333 address 172.23.33.3 mask 255.255.255.0 admin enable vlan 333
vlan 13 members port 1/3 untagged
vlan 2 members port 1/4 tagged
vlan 13 port default 1/3
vlan 2 802.1q 1/4
modify running-directory working
ip route-map local-to-rip sequence-number 10 action permit
ip route-map local-to-rip sequence-number 10 match ip-address 0.0.0.0/0 redist-control all-subnets
ip redist local into rip route-map local-to-rip


— .1x —
vlan port mobile 1/1
vlan port 1/1 802.1x enable
aaa radius-server rad1 host 192.168.100.102 timeout 25 key alcatel-lucent
aaa authentication 802.1x rad1

ip helper … (no need to specify vlan ID)

— UNP —

no aaa user-network-profile name Berlin
no policy list policy-berlin
no policy rule policy-berlin
no policy action policy-berlin
no policy condition policy-berlin
policy condition policy-berlin source ip 192.168.4.0 mask 255.255.255.0 destination ip 192.168.2.0 mask 255.255.255.0
policy action policy-berlin disposition deny
policy rule policy-berlin condition policy-berlin action policy-berlin
policy list policy-berlin type unp enable rules policy-berlin

qos apply
aaa user-network-profile name Berlin vlan 4 policy-list-name policy-berlin
— traffic ACL —
! it’s automaticly applied to all ports !!
policy condition v10 source ip 10.0.10.0 mask 255.255.255.0 destination ip 10.0.30.0 mask 255.255.255.0
policy action v10 disposition drop
policy rule v10 condition v10 action v10

— MSTP —
spantree mode flat
spantree cist protocol mstp
spantree mst region name France
spantree msti 1
spantree msti 1 vlan 31
spantree msti 2
spantree msti 2 vlan 32
bridge mode flat
bridge cist protocol mstp
bridge mst region name France
bridge msti 1
bridge msti 1 vlan 31
bridge msti 2
bridge msti 2 vlan 32

— disable stp for a vlan —
spantree vlan 12 admin-state disable

vlan 12 stp disable

—- LACP —-
interfaces 1/3 admin-state enable
linkagg lacp port 1/3 actor admin-key 3
linkagg lacp agg 3 size 2 actor admin-key 3
vlan 31-32 members linkagg 3 tagged
interfaces 1/4 admin up
lacp linkagg 2 size 8 actor admin key 2
lacp agg 1/4 actor admin key 2
vlan 32 802.1q 2
— OSPF —-
ip load ospf
ip ospf area 0.0.0.13
ip router router-id 1.1.1.1
ip ospf admin-state enable
ip ospf interface vlan13
ip ospf interface vlan13 area 0.0.0.13
ip ospf interface vlan13 admin-state enable
ip ospf interface vlan13 auth-type md5
ip ospf interface vlan13 md5 1
ip ospf interface vlan13 md5 1 key 123456
ip ospf interface vlan13 admin-state enable
ip load ospf
ip ospf area 0.0.0.13
ip router router-id 3.3.3.3
ip ospf status enable
ip ospf interface vlan13
ip ospf interface vlan13 area 0.0.0.13
ip ospf interface vlan13 status enable
ip ospf interface vlan13 auth-type md5
ip ospf interface vlan13 md5 1
ip ospf interface vlan13 md5 1 key 123456
ip ospf interface vlan13 status enable
— ospf virtual link —-
ip ospf virtual-link 0.0.0.13 1.1.1.1
ip ospf virtual-link 0.0.0.13 1.1.1.1 auth-type simple
ip ospf virtual-link 0.0.0.13 1.1.1.1 auth-key 123456
— ospf summery —
ip ospf area 0.0.0.10 range summary 172.21.0.0 255.255.0.0

— ospf aggrigate —
ip access-list local_agg
ip access-list local_agg address 172.31.0.0/16
ip access-list local_agg address 172.31.0.0/16 redist-control agregate
ip route-map local-to-ospf-agg sequence-number 10 action permit
ip route-map local-to-ospf-agg sequence-number 10 match ip-addresss local_agg
ip redist local into ospf route-map local-to-ospf-agg admin-state enable

— IGMP —
ip multicast admin-state enable

ip multicast status enable
for PIM devices:
ip multicast querying enable

for L2 devices:
ip multicast querier-forwarding enable

— PIM —
ip load pim
ip pim sparse admin-state enable

ip pim sparse status enable
ip pim interface Loopback0
ip pim candidate-rp 1.1.1.1 225.2.2.0/24
ip pim cbsr 1.1.1.1 (this is must to advertise the rp address to all other routers)

— VRRP —-
vrrp 10 10
vrrp 10 10 priority 150 preempt interval 1
vrrp 10 10 address 172.25.10.254

— SLB —
ip slb admin enable
ip slb cluster “vip1” vip 172.25.30.100
ip slb server ip 172.25.30.10 cluster “vip1”
ip slb server ip 172.25.30.20 cluster “vip1”

—- snmp —-
user public password alcatel-lucent read-write all
aaa authentication snmp “local”
snmp security no-security
snmp community-map mode enable
snmp community-map “public” user “pablic” enable
snmp station 192.168.100.102 public v2 enable

Bài hướng dẫn chụp ảnh tổng quát từ A-Z của National Geographic

Nếu bạn tự học chụp ảnh và đang cần một bài viết tổng quát hoá từ A-Z để nhập môn nhiếp ảnh thì đây là bài dành cho bạn. NatGeo gọi đây là “Basic Rules“, dành cho tất cả những ai thích chụp ảnh có được cái nhìn tổng quát nhất về nhiếp ảnh, bao gồm cả sử dụng thiết bị lẫn kỹ thuật chụp.

Bài dịch của bác: tuanlionsg (tinhte)

Mục lục “Basic Rules”:

  • Máy ảnh – tổng quan máy ảnh
  • Cảm biến – phân loại và kích thước
  • Ống kính – phân loại ống kính
  • Phối cảnh – từ hiệu ứng tiêu cự khác nhau của ống kính
  • Phơi sáng – tốc độ màn trập
  • Ánh sáng – ISO * Tốc độ màn trập * Khẩu độ ống kính
  • Chế độ chụp – các chế độ chụp trên máy ảnh
  • Đo sáng – các cơ chế đo sáng của máy ảnh
  • Biểu đồ Histograms – hiểu và sử dụng biểu đồ khi chụp ảnh
  • Tự động lấy nét – cơ chế hoạt động và cách dùng
  • DOF – hiểu & kiểm soát độ sâu trường ảnh
  • Bố cục – cơ bản & mở hướng sáng tạo
  • Cân bằng trắng – màu và nhiệt độ màu
  • Tầm quan trọng của hậu cảnh (Background) – những kiến thức về hậu cảnh
  • Đèn (Flash) – Đèn & vài cách xử lý
  • Tiền cảnh sáng hậu cảnh tối – lý do và cách xử lý
  • Trắng Đen
  • Thời điểm ánh sáng đẹp


TỔNG QUAN MÁY ẢNH

Nhiếp ảnh số đã vượt qua nhiếp ảnh phim và trở nên phổ biến. Những người làm nghề ảnh chụp ảnh dùng phim bất đắc dĩ phải thay đổi thiết bị ghi hình và cập nhật công nghệ số, hoặc “ngồi chơi xơi nước” hoài cổ về thời hoàng kim trong quá khứ. Còn trong thế giới ảnh nghệ thuật, máy ảnh chụp phim vẫn được ưa chuộng. Lời khuyên thật đơn giản: hãy cứ chọn cho mình những công cụ ghi hình cần thiết và phù hợp miễn sao gặt hái thành quả như mong muốn.

Trước đây, một thợ chụp chuyên nghiệp có thể tùy chọn cho mình một chiếc máy ảnh giữa vô số những kiểu máy ảnh chụp phim—phản xạ ống kính đơn (SLR single lens reflexes), ống kính kép (twin lens reflexes), máy dùng khung ngắm trắc viễn (rangefinders), và một số khác, tùy mẫu mã người ta nhìn thấy mà đặt tên cho chúng—khi chọn công cụ cho công việc làm ăn của họ. Hiện nay, cùng với sự xuất hiện của công nghệ và phần mềm kỹ thuật số, hầu hết những người chụp ảnh nghiêm túc và lành nghề đều có thể tin cậy vào khả năng một máy ảnh số phản xạ ống kính đơn, hay còn gọi là D-SLR (digital single-lens reflex).

24b33c89d926b7a4a76b25d4cf180ff8

Một chiếc D-SLR là một công cụ ghi hình quan trọng, như các máy ảnh chuyên chụp phim, cho phép ngắm các đối tượng qua ống kính và ghi lại hình ảnh trên cảm biến. Tiến trình này diễn ra qua một gương lật phản quang và cầu phản xạ ngũ giác đưa hình ảnh đến ống ngắm mà người ta gọi là “nhìn sao chụp vậy” (WYSIWYG – What You See Is What You Get). Thật khó hình dung được, mỗi khi bạn nhấn phím chụp để chụp một bức ảnh, một gương phản xạ nằm giữa ống kính và cảm biến lật lên, màn trập mở ra, và cảm biến được phơi sáng trong một thời gian nhất định. Đồng thời bộ vi xử lý ghi nhận các thông tin hình ảnh đã được cảm biến ghi lên thẻ nhớ. Tốc độ chụp liên tiếp của một số máy ảnh ngày nay rất cao, nhiếp ảnh gia thể thao và báo chí sử dụng, chúng có thể chụp đến 8 – 11 bức ảnh trong một giây và có thể chụp liên tục 160 – 200 ảnh mới đầy bộ nhớ đệm.

Có hai loại máy ảnh D-SLR dành cho tất cả các nhu cầu và mục đích.

  • Trước hết là loại máy ảnh mang dáng dấp truyền thống, cơ bản là được thiết kế dựa trên kiểu máy ảnh chụp phim 35mm (Full Frame) với kích thước bằng khổ tương đương phim 35mm hoặc nhỏ hơn (Crop 1.5x, 1.4x, …). Những người chụp ảnh vốn thường sử dụng cả hai loại máy ảnh phim chuyên nghiệp khổ trung (medium format) và khổ lớn (large format) đều nhận thấy rằng, trong một số trường hợp, loại D-SLR đời mới có thể mang lại hình ảnh chất lượng tốt hơn so với hình ảnh mà họ có thể có được từ phim. (thuật ngữ “khổ” của một máy ảnh là để nói về kích thước âm bản của máy ảnh chụp phim và kích thước của cảm biến của máy ảnh KTS. Khổ lớn là muốn nói đến những máy ảnh cho ra phim âm bản cỡ 4,5 inch và lớn hơn, trái lại, khổ nhỏ là để chỉ về những máy ảnh khổ 35mm). Những người trước đây sử dụng các máy ảnh phim compact và rangefinder thuộc hàng cao cấp cũng đang bị hấp dẫn với tính chất hữu dụng và chất lượng hình ảnh số do D-SLR mang lại.
  • Loại thứ hai là phần số gắn trên SLR medium format (digital back). Đơn thuần chỉ là bộ phận số gắn trên máy ảnh dùng phim medium format. Một vài nhà sản xuất cho ra những chiếc D-SLR khổ lớn bằng cách sử dụng các cảm biến CCD lớn hơn (medium số). Những loại máy ảnh này có xu hướng được dùng để chụp những bức ảnh đòi hỏi độ phân giải cao, như phong cảnh, thời trang hay ảnh tĩnh vật chẳng hạn.

Khi sở hữu một chiếc máy ảnh, bạn cần hiểu rõ nó, thành thạo sử dụng, và nó sẽ là công cụ phục vụ cho ý muốn của bạn. Luôn nhớ rằng công nghệ mới luôn được cải tiến không ngừng đươc nâng cao. Ngay khi bạn vừa mua một chiếc mẫu mới và làm quen với việc sử dụng nó, thì  một mẫu khác mới hơn sẽ có mặt trên thị trường. Vì vậy, hài lòng và khai thác tối đa công cụ hiện có, đầu tư ý tưởng và những dự án ảnh của mình nhiều hơn.

CẢM BIẾN

Cảm biến ảnh bên trong một chiếc máy ảnh số thay thế cho tấm phim. Có hai loại cảm biến chính được sử dụng trên các máy ảnh D-SLR. Đó là CMOS (Complementary Metal Oxide Semiconductor) và CCD (Charge Coupled Device).

Cả hai loại cảm biến có những đặc tính riêng, và chúng có nhiều nét đặc trưng khác nhau có thể cần phải lưu ý khi mua. Ngày nay, các hãng hầu hết chỉ sản xuất máy ảnh cảm biến CMOS. Trước đây, điều này thật quan trọng khi xem xét một số file ảnh chụp thử và xem xét những điểm đặc trưng của đời máy mà bạn có ý định mua.

Khả năng chụp ở điều kiện ánh sáng yếu khi sử dụng độ nhạy ISO cao cũng là điều quan tâm. Một số rất tuyệt vời với ánh sáng tự nhiên bình thường song lại rất tồi khi được sử dụng với độ nhạy ISO cảm biến ở mức cao. Hãy kiểm tra độ “nhiễu” hay “nhiễu hạt” khi ở ISO cao. Hãy nghiên cứu kỹ và chọn một cảm biến phù hợp với thể loại nhiếp ảnh mà bạn quan tâm nhất.

Trong khi, vào thời còn chụp phim, bạn có thể mua máy ảnh rồi sau đó mới quyết định cần mua loại phim nào, thì hiện nay, bạn phải đưa ra quyết định quan trọng đó ngay từ đầu. Chẳng hạn, nếu cảm biến ít sắc nét hơn so với máy ảnh khác, hoặc tính chất đặc trưng về màu sắc không phù hợp sở thích, thì có thể bạn sẽ hối tiếc vì chọn lựa của mình. Một số máy ảnh D-SLR có tích hợp sẵn chức năng làm sắc nét để bù cho các bộ lọc khử răng cưa, nguồn gốc chính của hiện tượng “bị mờ nét”

Thoạt tiên, có thể bạn không nghĩ rằng kích thước vật lý của cảm biến là một yếu tố cần cân nhắc, mà cho rằng chất lượng của tập tin ảnh mới được coi là yếu tố chủ chốt. Tuy nhiên, cảm biến nhỏ trên một chiếc D-SLR có thể là 25.7mm x 16.7mm, so với một chiếc máy ảnh chụp phim khổ 35mm truyền thống là 24mm x 36mm. Trong trường hợp này, một ống kính 50mm, nếu trên một máy Full Frame được coi là một ống kính tiêu chuẩn, thì hình ảnh crop nhỏ tương đương như máy cảm biến FF gắn một ống kính 75mm.

Như vậy, ống kính 50mm trên máy ảnh DSLR full-frame sẽ có góc thu hình rộng hơn là khi gắn trên máy ảnh DSLR crop sensor. Ống kính 50mm của máy ảnh DSLR full-frame là ống kính normal tiêu chuẩn nhưng khi gắn trên máy ảnh DSLR crop sensor lại là một ống kính góc hẹp hơn, tương đương với một tiêu cự dài hơn. Chẳng hạn ống kính 50mm gắn trên máy ảnh số có bộ cảm biến nhỏ tỷ lệ là 1.6x sẽ là 80mm.

2710b0039c5c88fbeb3ef91642d4c310

Cảm biến càng lớn, lưu nhận càng nhiều ánh sáng. Kích thước 1.8″ còn được gọi là APS-C và có dao động một chút khác biệt như APS-C film có kích thước 25.1 x 16.7 mm, APS-C của Sony là 21.5 x 14.4 mm, Nikon “DX” là 23.7 x 15.7 mm, trong khi Canon thì có khi thì nhỏ hơn khi thì lớn hơn, như 22.2 x 14.8 mm và 28.7 x 19.1 mm. Cảm biến ảnh của máy ảnh DSLR và của máy ảnh Mirroless có kích thước Micro Four Thirds (17 x 13mm), APS-C (24 x 16mm), hoặc Full-Frame (36 x 24 mm). Các máy ảnh du lịch nhỏ hoặc điện thoại có kích thước cảm biến rất nhỏ. 1/2.5″ là kích thước phổ thông nhất trong một số máy PnS giá rẻ; với điện thoại, ngoài 1/2.5″ còn có 1 / 3.2, 1 / 2.3, 2/3, 1 / 3.2… với 1/2.7 là tương đương 5.37mm x 4.04mm là rất nhỏ dành cho camera điện thoại.

Cảm biến lớn hơn có thể chứa các điểm ảnh có kích thước lớn hơn. Khả năng chụp trong môi trường thiếu sáng tốt hơn. Chẳng hạn một máy ảnh Full Frame và một máy ảnh APS-C có cùng số lượng điểm ảnh là 16MP. Thì điều đó không có nghĩa là chất lượng hình ảnh cũng sẽ tương đương. Trên diện tích FF lớn hơn, các điểm ảnh lớn hơn, ghi nhận nhiều ánh sáng hơn, chất lượng ảnh sẽ tốt hơn.

TÔI CẦN LOẠI ỐNG KÍNH NÀO ?

Sau khi sắm máy ảnh là sắm ống kính. Thường một chiếc máy ảnh khi được bán kèm them một ống kính Kit như 18-55mm là ống kính phù hợp cho người bắt đầu. Sau một thời gian sử dụng thành thạo thiết bị, quen thuộc với các cách canh khung sắp xếp bố cục, nhạy bén khoảnh khắc, chụp ảnh có ý tứ… thì bắt đầu định hình nhu cầu chủ để rõ ràng, và phát sinh nhu cầu mua ống kính phù hợp.

Có nhiều loại ống kính với công dụng khác nhau. Để biết được mình nên mua loại nào, bạn cần phải biết mình muốn dùng nó để chụp những gì. Các ống kính có nhiều dạng và kích cỡ – và đều có đặc tính riêng. Điểm quan trọng nhất của một ống kính chính là độ dài tiêu cự, gọi tắt là tiêu cự. Tiêu cự là khoảng cách nằm trên trục tính từ trung tâm quang học của ống kính đến điểm hội tụ trên mặt phim hay cảm biến khi ống kính lấy nét ở vô cực. Tiêu cự ống kính càng dài thì độ khuếch đại hình ảnh càng lớn, kích thước tiêu cự và hình ảnh tỷ lệ thuận. Hình ảnh chụp bằng ống kính tiêu cự 100mm có hình ảnh gấp đôi hình ảnh chụp bằng ống kính 50mm trên cùng máy ảnh.

Một ống kính dùng cho hai loại máy ảnh số có kích thước cảm biến ảnh khác nhau sẽ có cùng độ khuếch đại nhưng khác góc thu hình. Chẳng hạn ống kính 50mm trên máy ảnh DSLR Full-Frame (tương đương kích thước film 35mm) có góc thu hình rộng hơn khi gắn trên máy ảnh DSLR Crop Sensor (tỷ lệ x1.3 hoặc x1.6 với dòng máy DSLR Crop sensor của Canon; Còn Nikon, Pentax, Sony thường là x1.5; hay các dòng máy chuẩn Four Thirds thường là x2). Từ đó, ống kính 50mm trên máy ảnh DSLR Full-Frame là ống tiêu chuẩn normal thì khi gắn trên máy DSLR crop sensor lại là ống kính góc hẹp hơn, tương đương ống kính có tiêu cự dài hơn trên FF. Chẳng hạn ống kính 50mm gắn trên máy ảnh số có cảm biến tỷ lệ x1.5 là 75mm.

4fd02ce2b34373fb04e1203a86c89b9f

Dưới đây là một liệt kê các dòng ống kính khác nhau và một số ứng dụng của chúng.

Có ba loại ống kính cơ bản:

  • góc rộng
  • trung bình (tiêu chuẩn)
  • tê-lê

Một ống kính được phân loại cụ thể dựa trên tiêu cự của nó.

  • 50mm là độ dài tiêu cự truyền thống đối với một ống kính tiêu chuẩn.
  • Dưới 50mm được xem là một ống kính góc rộng.
  • Trên 50mm được cho là ống kính tê-lê.
  • Các ống kính vượt quá 300mm được xem là ống kính siêu tê-lê.

Ống kính trung bình (normal):
Là ống có độ dài tiêu cự tương đương đường chéo khung phim hoặc cảm biến của máy ảnh dùng ống kính này. Chẳng hạn máy ảnh phim 35mm, kích thước khung phim là 24mm x 36mm có đường chéo là 43mm thì tiêu cự trung bình là từ 45mm – 55mm. Nhiều người bảo ống có tiêu cự tầm trung này tương đương góc nhìn của mắt người, phù hợp với nhiều tình huống chụp. Mình thích cách phân biệt trên hơn.

Đặc tính của ống kính trung bình:

  • Góc thu hình khoảng 45°, xấp xỉ góc nhìn phối cảnh như mắt người.
  • Chủ đề giữ đúng tỷ lệ, không bị biến dạng.
  • Đa dụng trong nhiều hoàn cảnh chụp
75b72f0b13d4ce64463df20505d2dded

Ống kính tiêu chuẩn (50mm) cho ra một góc ngắm từ 45 đến 55 độ, tương đương với góc nhìn của mắt thường. Do đó, nó mang lại hình ảnh với dáng vẻ tự nhiên; nó ghi hình các vật thể theo cách gần giống như chúng ta có thể nhìn thấy trên thực tế.

Do loại ống kính này ghi hình các đối tượng giống như chúng ta nhìn thấy, nên chúng mang lại những hình ảnh trông rất “tự nhiên bình thường” và, vì thế, chúng được sử dụng rộng rãi như một ống kính đa mục đích.

Ống kính góc rộng (wide-angle):
Là ống kính có tiêu cự ngắn hơn và dĩ nhiên góc thu hình rộng hơn ống kính 35mm đối với máy ảnh DSLR Full-Frame. Nói về cái ống 35mm được nhiều người chụp ảnh chuyên nghiệp “xem” là ống tiêu chuẩn (normal) nhưng bản chất nó là ống wide. Loai ống góc rộng này sử dụng trong ảnh đại cảnh, kiến trúc… và đắc dụng khi ghi hình ở hoàn cảnh bị hạn chế góc chật, hoặc người dùng muốn có hiệu ứng góc rộng. Với loại ống góc rộng, chỉ cần thay đổi nhỏ trong góc chụp (vị trí đặt máy) có thể làm một khung ảnh bình thường trở nên độc đáo và ngược lại.

Đặc tính của ống kính góc rộng:

  • Góc thu hình từ 60° – 180°
  • Vùng ảnh rõ (dof) rất sâu
  • Tăng sự nổi bật của chủ đề ở gần trong phối cảnh rộng, ống càng có tiêu cự ngắn, hiệu ứng này càng tăng. Tỷ lệ gần xa rất mạnh tạo tương quan tiền cảnh hậu cảnh độc đáo nếu dùng đúng cách.
  • Đường chéo là phần mạnh nhất trong tầm nhìn góc rộng, kéo hướng nhìn về hộ tụ rất xa. chẳng hạn con hẻm cụt có thể như một ngõ sâu hun hút.
  • Hạn chế các chủ đề hình dạng tròn, mặt người ở gần góc và cạnh khung dễ bị biến dạng.
312c38c7e799f59d0dae6f2beb26fdac

Với một số lượng khá lớn những ống kinh góc rộng tiện dụng thuộc loại có tiêu cự từ 8mm đến 35mm, thì việc chọn lựa thật là kỳ công và có thể gây nhiều bối rối. Cơ bản mà nói, ống kính càng rộng, việc sử dụng nó càng phải chuyên biệt.

Hiệu ứng ống kính góc rộng có thể làm méo hình ảnh và việc sử dụng nó, nếu có, cũng rất hạn chế. Tôi sẽ gợi ý là nên có một ống kính 24mm hoặc 28mm—tiêu cự này phổ biến hơn— để bắt đầu là tốt nhất.

Ống kính góc rộng 35mm thường được dùng như ống kính tiêu chuẩn bởi vì, mặc dầu độ dài tiêu cự có hơi nhỏ hơn ống kính tiêu chuẩn 50mm một chút, nhưng sự khác biệt không lớn. Nó có thể mang lại cho người chụp ưu điểm về độ sâu trường ảnh rất dày, một lợi ích thực sự cho người mới bắt đầu vốn chỉ chụp ở những nơi có không gian hạn chế và muốn có hình ảnh lọt vào vùng lấy nét càng nhiều càng tốt.

Do góc nhìn rộng hơn ống kính tê-lê và ống kính tiêu chuẩn, nên rõ ràng ống kính góc rộng chính là loại được dùng cho những nơi có không gian hạn chế hoặc đối tượng rộng lớn. Chụp ảnh gia đình dịp lễ họp mặt vào lúc có đến hàng chục người thân tề tựu lại với nhau là việc không thể, trừ khi bạn sống trong một ngôi nhà rất rộng—hoặc có một ống kính góc rộng để chụp.

Chụp ảnh phong cảnh cũng là một lĩnh vực mà ống kính góc rộng rất hữu dụng. Việc dùng ống kính góc rộng có thể giúp cho lấy cận cảnh đối tượng chính để làm cho nổi bật lên trong khung hình, trong khi vẫn giữ nét tối đa cho hậu cảnh như ý muốn.

Ống kính télé ( ống kính tiêu cự dài, ống kính tầm xa):
Là ống kính có độ dài tiêu cự lớn hơn tiêu cự của ống kính normal. Loại ống này cho ta góc nhìn hẹp đến rất hẹp, tức là khuếch đại rất lớn các thành phần nhỏ của chủ đề trong khung ảnh. Vì vậy, ống tele hữu dụng khi cần lấy chi tiết một chủ đề mà ta không thể tiếp cận. Ống có tiêu cự càng dài thì độ khuếch đại hình ảnh càng lớn và khoảng ảnh rõ càng mỏng. Phối cảnh chụp bởi ống kính tele có hiệu ứng “mỏng/ dẹt”, các mặt phẳng trong khung sát lại với nhau, có thể tạo bố cục độc đáo nhưng cũng tạo đối tượng ở xa to hơn bình thường như mặt trăng/ mặt trời.

* Đặc tính của ống kính télé:

  • Độ khuếch đại lớn
  • Vùng ảnh rõ mỏng, tách chủ đề với hậu cảnh (xoá phông)
  • Tiêu cự càng lớn, phối cảnh bị dồn ép lại, chiều sâu ảnh giảm
  • Dài và nặng hơn các loại khác
ebf4a96f23636e130cf1b9037f4618b3

Chúng ta ai cũng biết ống kính tê-lê tầm dài có thể đưa đối tượng chụp vào ngay giữa bức ảnh; các đối tượng chụp có vẻ ở rất xa khi chụp với ống kính tiêu chuẩn, thì lại có vẻ như nằm cách trước mặt người chụp chỉ vài bước chân khi chụp bằng ống kính tê-lê.

Ống kính tê-lê được sử dụng rất nhiều chứ không phải chỉ để chụp ảnh thể thao. Góc thu hình (tiếp nhận ánh sáng) hẹp và khả năng phóng đại rất lớn giúp cho người chụp thu ngắn khoảng cách giữa họ với điểm chủ đạo của bức ảnh. Ống kính cho phép bạn chụp được cảnh chụp với tỉ lệ nhỏ hơn, vì thế mà đối tượng chụp của bạn không bị mất. Hiệu ứng này làm cho các ống kính tê-lê đặc biệt thích hợp với chụp ảnh phong cảnh khung hẹp khi có ý muốn tách riêng các chi tiết trong một vùng rộng lớn hỗn độn.

Một ống kính tê-lê có độ dài tiêu cự dài hơn thường có độ sâu trường ảnh mỏng hơn ống kính góc rộng, hoặc thậm chí cả ống kính tiêu chuẩn. Tính chất này có thể được dùng để làm mờ hậu cảnh nhằm tạo ra một chủ thể rõ ràng tách biệt khỏi hậu cảnh.

Bạn phải lưu ý đến yếu tố này khi sử dụng ống kính tê-lê để chụp ảnh phong cảnh mà trong đó, càng có nhiều phần của bức ảnh lọt vào vùng lấy nét càng tốt. Việc này thường đòi hỏi tốc độ chụp chậm và khẩu độ nhỏ để tạo trường ảnh dày hơn. Một giá ba chân sẽ là cần thiết nhằm giữ cho máy ảnh hoàn toàn không bị rung lắc.

Một ống kính tê-lê tầm ngắn—90mm, 110mm, hoặc 135mm- là lý tưởng để chụp chân dung. Nó cho phép người chụp duy trì được một khoảng cách thích hợp với chủ thể, trong khi vẫn giúp cho sử dụng độ sâu trường ảnh hạn chế nhằm tránh làm rối loạn hậu cảnh.

Ống kính zoom (đa tiêu cự) hay Ống Kính tiêu cự cố định (Fixed)

Ống kính thay đổi được tiêu cự. Nếu tiêu cự thay đổi trong khoảng tiêu cự ngắn được gọi là wide-zoom (chẳng hạn ống 14-24mm); nếu thay đổi trong khoảng tiêu cự dài được gọi là tele-zoom (chẳng hạn ống 100-400mm); nếu thay đổi từ tiêu cự ngắn đến tiêu cự dài thì được gọi đơn giản là zoom (chẳng hạn ống 18-200mm).
* Đặc tính của ống kính zoom:

  • Cơ động của nhiều tiêu cự.
  • Có thể chụp zoom in / zoom out
  • Phù hợp với nhiều hoàn cảnh cần phản ứng nhanh
12c6a66ba75bcc476258fec97a4f50c6

Do ống kính zoom ngày càng đạt chất lượng tốt, nên chúng trở nên phổ biến hơn. Vài năm trước, một ống kính zoom có thể không chất lượng bằng một ống kính độ dài tiêu cự cố định và được xem là một thay thế rẻ hơn so với việc mua một số ống kính tiêu cự cố định.

Tình trạng đó đã nhanh chóng thay đổi, và một số ống kính zoom sắc nét và nhanh nhạy nhất hiện nay đã có nhiều trên thị trường. Ống kính zoom cho phép người chụp ảnh mang theo ít trang thiết bị hơn, do nó thường có thể thay cho hai, hoặc thậm chí ba, ống kính thông thường. Một ống kính zoom chất lượng cao thường đắt tiền và giá của nó tương đương với hai hoặc ba ống kính tiêu cự cố định.

Nếu phải chọn giữa ống kính tiêu cự cố định và ống kính zoom tiêu cự tùy biến, thì bạn nên chọn loại cố định. Lý do rất đơn giản: Khẩu độ không đổi nhiều trường hợp lợi sáng hơn. Với một ống kính zoom tùy biến, khẩu độ có thể hạ xuống đến hơn một f-stop. Chẳng hạn, nếu bạn zoom từ 28mm đến 135mm và bắt đầu với khẩu độ f/3.5, bạn có thể kết thúc bằng f/5.6. Nhưng ống fixed một tiêu cự thì phải dịch chuyển để có khung ảnh như ý muốn, không thể ngồi một chỗ zoom ra vào.

Ống kính Macro
Các loại ống kính thông thường có khoảng cách lấy nét tối thiểu xấp xỉ gấp 10 -30 lần độ dài tiêu cự. Chẳng hạn ống kính 50mm thì khoảng cách lấy nét gần nhất có thể là 50cm. Nên loại ống kính macro hay micro là ống kính một tiêu cự được thiết kế đặc biệt để có thể lấy nét cực gần và cho hình ảnh cực nét ở cự ly gần. Ống macro thường có tỷ lệ phóng đại 1:1 tức là kích thước vật thể bao nhiêu trong thực tế thì trên bề mặt phim hay cảm biến ảnh cũng có kích thước như vậy.

8bd21280b034a796214eb1055595fc04

Ống macro thường được dùng để chụp các loại côn trùng, bò sát, hoa lá nhỏ, các chi tiết nhỏ phục vụ nghiên cứu. Người ta còn gắn thêm các ống nối (tube) để tăng độ khuếch đại, thậm chí gắn qua hệ thống ống nối đặc biệt ống macro với kính hiển vi để chụp vi trùng. Nếu bạn thích thú với việc chụp côn trùng, cận cảnh cỏ cây hoa lá, hoặc bất cứ đối tượng nhỏ bé nào, thì ống kính macro có thể là thứ bạn cần.

Thường tiện dụng với các tiêu cự 35mm, 50 hoặc 60mm, 100, 105mm, và như ống 200mm trong hình là loại quý hiếm; loại ống kính này tương tự với ống kính thông thường ở chỗ chúng có thể lấy nét đến mức không hạn chế, nhưng chúng lại được thiết kế nhằm lấy nét ở những khoảng cách cực kỳ ngắn. Chúng được dùng để chụp cận cảnh.

Ống kính mắt cá (Fisheye)
Gọi là ống kính mắt cá bởi vì nó cho ra những hình ảnh trông giống như mắt cá, loại ống kính này có góc rộng rất lớn. Nó có thể mang lại một góc nhìn 180 độ và một vòng tròn hay một bức ảnh ‘full-frame’ bị méo lệch đi rất nhiều ở các phần rìa. Do đây là loại hình ảnh duy nhất nó có thể tạo ra, nên rõ ràng là việc sử dụng nó rất hạn chế. Tất cả đường thẳng không đi qua tâm đều bị uốn cong, càng xa tâm càng cong.

73836641b8856c948217051d8c19db4e

Ống kính Tilt-Shift
Ống kính trượt khá đắt tiền, nhưng nếu thích chụp ảnh các toà nhà cao tầng, bạn sẽ tìm thấy sự hữu ích của nó. Là loại ống làm cho các đối tượng trong ảnh bị thu nhỏ lại như chụp mô hình, đồ chơi. Về nguyên tắc, tilt-shift là kĩ thuật dịch chuyển hoặc nghiêng ống kính (chuyên dụng) để tạo ra những bức ảnh mà chủ thể trong ảnh có kích thước trông nhỏ hơn so với thực tế. Từ tilt-shift nhắc đến hai cách dịch chuyển khác nhau: tilt có nghĩa là quay (nghiêng) ống kính và shift là dịch chuyển ống kính song song với mặt phẳng của ảnh. Việc quay ống kính giúp bạn điều khiển được mặt phẳng tiêu diện (plane of focus (PoF)) tạo hiệu ứng chỉ làm rõ một phần của bức ảnh, cụ thể là ảnh chỉ sắc nét ở bề ngang giữa ảnh và bị mờ hai vùng trên và dưới.

Một ống kính tilt-shift cho phép máy ảnh giữ được tư thế thẳng đứng và song song với tòa cao ốc và nhờ vào việc di chuyển các vòng kính phía trước để có thể đưa toàn bộ tòa nhà lọt vào khung hình. Bạn thực hiện thao tác này bằng cách cho phần trước của ống kính trượt lên để gom phần đỉnh tòa nhà vào khung hình mà không cần phải chĩa máy lên. Sử dụng ống kính trượt sẽ ngăn không cho các đường dọc chụm lại trên đỉnh, nhưng vẫn mang lại cảm giác như đang nhìn tòa nhà từ dưới lên.

3720156_anh-tilt-shift-photography-22

Teleconverters
Là thiết bị quang học gồm cụm thấu kính gắn vừa với thân máy và ống kính và gia tăng độ dài tiêu cự hiệu quả của ống kính. Đa số ống kính chuyển đổi tầm xa đều xuất xưởng với các phiên bản 1.4x hoặc 2x. Một ống kính phiên bản 2x sẽ chuyển đổi một ống kính 200mm thành 400mm, tuy có làm khẩu độ tối đa bị giảm xuống 2 ‘stop’. Nên phải bù sáng bằng cách cài đặt ở tốc độ chụp chậm hoặc mức ISO cao hơn. Đây là phụ kiện rất hay để mở rộng phạm vi ống kính tê-lê của bạn, nhưng phải bảo đảm bạn mua được ống kính chuyển đổi tốt nhất có thể.

3720164_Teleconverter_trio

PHỐI CẢNH

Có máy có ống kính rồi, tiếp tục nắm vững phối cảnh là khả năng sử dụng máy ảnh và ống kính của bạn để điều chỉnh mối tương quan giữa chủ thể, hậu cảnh và tiền cảnh cho các bức ảnh bạn chụp.

Theo luật viễn cận của ống kính máy ảnh: Tuỳ theo độ dài tiêu cự ống kính, trường sâu độ ảnh sẽ cho hình ảnh không còn giống như mắt nhìn trong cảnh thực. Với ống kính trung bình, chiều sâu ảnh trường gần tương tự như mắt nhìn, nhưng với ống kính tele (tiêu cự dài) thì chiều sâu ảnh trường sẽ thu hẹp lại, hình ảnh có hậu cảnh gần hơn cảnh thực tế, các lớp ảnh sít lại gần nhau; trong khi đó với ống kính góc rộng (wide) thì chiều sâu ảnh trường bị đẩy xa ra, hình ảnh thu được có hậu cảnh xa hơn so với cảnh thực, không gian có cảm giác rộng hơn so với thực tế.

Chẳng hạn khi bạn sử dụng một ống kính góc rộng, hậu cảnh có vẻ nằm xa với chủ thể hơn thực tế. Với ống kính tiêu chuẩn, phần hậu cảnh dường như có cùng khoảng cách với tầm nhìn của mắt thường. Nếu sử dụng ống kính tê-lê, thì hậu cảnh lại có vẻ như gần hơn. Cũng nên nói thêm rằng, trên một ống kính góc rộng, góc thu nhận ánh sáng rộng hơn ống kính tiêu chuẩn hoặc tê-lê vốn có góc thu nhỏ hơn. Điều này có nghĩa là với một ống kính góc rộng, đôi khi bạn có thể phải ngạc nhiên về rất nhiều chi tiết được thu vào trong bức ảnh. Trái lại, khi sử dụng ống kính tê-lê, chủ thể bạn chụp trở nên nổi bật hơn và phần hậu cảnh ít được thu vào khung hình hơn.

Như vậy, bằng cách thay đổi các ống kính của mình, và do đó, thay đổi cả phối cảnh, bạn có thể dùng hậu cảnh để bổ sung cho bức ảnh hoặc tách riêng các chủ thể như ý muốn. Như tôi đã nhắc nhớ trong chương trước, bạn hãy thử nghiệm bằng cách chụp nhiều bức ảnh khác nhau cùng một chủ thể với nhiều ống kính có tiêu cự khác nhau để giúp bạn hiểu được các tiêu cự khác nhau ảnh hưởng đến phối cảnh như thế nào. Đừng quên di chuyển lui tới trước chủ thể để giữ cho nó có cùng kích thước trong tất cả các khung hình và dưới nhiều tiêu cự khác nhau.

Rồi, trước khi qua phần thao tác chụp ảnh, kiểm tra lại:

Dưới đây là danh sách kiểm tra nhằm giúp bạn nhớ tất cả những phương diện kỹ thuật nhiếp ảnh cần ghi nhớ trong đầu. Máy ảnh mới của bạn là một thiết bị rất phức tạp; danh sách này sẽ giúp bạn tránh được những lỗi đơn giản trong lúc làm quen với nó.

  • Bạn đã sạc pin chưa ? Trước khi ra khỏi nhà, hãy sạc đầy pin của bạn. Mới dùng, hầu như ngày nào bạn cũng kiểm tra tất cả các hình ảnh trên màn hình LCD ở mặt sau máy ảnh, và đây là việc làm cho pin máy nhanh cạn hơn bất cứ thứ gì khác.
  • Bạn đã format thẻ nhớ của mình chưa ? Trước mỗi đợt chụp ảnh và sau khi lưu chuyển hình ra khỏi thẻ, hãy luôn luôn format thẻ nhớ.
  • Bạn có còn đủ dung lượng nhớ trong thẻ không? Hãy bảo đảm bạn đã mua đủ thẻ nhớ cho những chuyến đi dài ngày đến những nơi mà có thể bạn sẽ không tìm mua được loại thẻ phù hợp.
  • Giữ gìn máy ảnh và ống kính sạch sẽ. Một vết bẩn trong cảm biến hay bề mặt thấu kính có thể ảnh hưởng đến ảnh chụp.
  • Bạn đã thiết đặt độ nhạy cho cảm biến (ISO) càng thấp càng tốt, bởi vì việc thiết đặt ISO cao thì gây ra “độ nhiễu” nhiều hơn. Quy tắc chung là: ISO càng thấp, chất lượng càng tốt .
  • Bạn đã cài đặt cân bằng trắng chưa ? Chúng ta sẽ đi sâu vào chi tiết này sau, nhưng ở giai đoạn này, hãy bảo đảm máy ảnh của bạn đã được cài ở chế độ tự động cân bằng trắng, vì trong phần lớn các trường hợp, việc này có thể dẫn đến kết quả có thể chấp nhận được.
  • Bạn đã thiết đặt định dang ảnh—JPEG, RAW, hay TIFF chưa? Chủ đề này cũng sẻ được đề cập sau. Riêng giai đoạn này, bạn hãy bảo đảm máy ảnh của mình đã được cài đặt để cho ra chất lượng hình ảnh JPEG cao nhất có thể. Thật vô ích khi chụp với cài đặt định dạng JPEG thấp, bởi vì làm như vậy sẽ đi ngược với mục đích sử dụng máy ảnh chất lượng cao.

CHỤP ẢNH

Trước hết, tôi sẽ định nghĩa ba thuật ngữ nhiếp ảnh cơ bản mà bạn cần biết. Sau đó chúng ta sẽ tìm hiểu cặn kẽ từng thuật ngữ ấy.

  • Phơi sáng (Exposure): Phơi sáng là quá trình một lượng ánh sáng, được kiểm soát bởi khẩu độ và tốc độ màn trập, thâm nhập vào cảm biến.
  • F-stops: Là số đo kích thước độ mở ống kính, hoặc gọi là khẩu độ, trên ống kính. Nên nhớ, số đo f-stop càng lớn, khẩu độ càng nhỏ. Số đo f-stop càng nhỏ, khẩu độ càng lớn cho lượng ánh sáng thâm nhập vào cảm biến.
  • Tốc độ màn trập: Là số đo thời lượng mở của màn trập. Màn trập càng mở lâu, ánh sáng càng được cho thâm nhập vào cảm biến. Tốc độ màn trập nhanh hơn, thì “đóng băng” chuyển động và thường đòi hỏi nhiều ánh sáng nhờ khẩu độ lớn hơn (trị f-stop nhỏ hơn). Tốc độ màn trập chậm thường chụp trong bối cảnh ánh sáng yếu với khẩu độ nhỏ hơn (trị f-stop lớn hơn).

Trước khi có thể thực hiện việc phơi sáng một cách chính xác (hay gọi là đúng sáng), điều quan trọng là ta cần phải biết một hình ảnh được phơi sáng chính xác trông giống như thế nào. Khung ảnh có những vùng sáng chênh lệch nhau, môt bức ảnh KTS được phơi sáng chính xác là một bức ảnh hiển thị đầy đủ các mức độ khác nhau về màu sắc, từ những bóng đổ đậm đến những điểm sáng rực rỡ, một cách chi tiết trên toàn bức ảnh. Bạn phải nhìn thấy được một số chi tiết trong các mảng tối, và đồng thời cũng nhìn thấy được chi tiết trong các khoảng sáng hơn. Chỉ khi đã làm được như vậy, sau này bạn mới có thể quyết định có thực sự cần để cho các mức độ màu sắc xuất hiện hoàn toàn hay không, khi in ảnh. Nếu đã không chắc chắn ngay từ đầu, thì về sau bạn chẳng thể làm được gì nhiều.

Điểm vừa đề cập còn thiết yếu hơn nữa đối với việc chụp ảnh bằng định dạng JPEG. Còn khi chụp với định dạng RAW, việc phơi sáng chính xác dễ dàng hơn một chút vì sau đó bạn có thể chỉnh sửa lại sáng tối màu sắc trên máy tính.

KIỂM SOÁT ÁNH SÁNG

Để ghi lại được một hình ảnh đầy đủ màu sắc trên cảm biến, bạn cần phải để cho lượng ánh sáng đủ đi vào cảm biến. Có ba yếu tố điều chỉnh thời lượng và số lượng ánh sáng, đó là độ nhạy của cảm biến (ISO), tốc độ màn trập và khẩu độ.

3721152_upload_2016-5-29_19-40-58

ISO – Độ nhạy của cảm biến

Thời nhiếp ảnh phim còn thống trị, việc phơi sáng là một chủ đề cực kỳ quan trọng. Thời đại KTS cho phép chúng ta có thể nhìn thấy kết quả những thiết đặt thông số của chúng ta ngay lập tức. Không khác gì máy ảnh chụp phim, máy ảnh D-SLR cũng tập trung vào độ sáng của chủ thể, độ tương phản, màu sắc của hình ảnh và vùng được lấy nét. Khi được cài đặt ở chế độ phơi sáng tự động, máy ảnh ngay lập tức tính toán tất cả những thứ ấy.

Nếu bạn là người mới đặt chân vào nghề, có nhiều yếu tố khác nhau cần phải được xem xét trước khi bạn bấm máy. Tôi lên khung cho bức ảnh ra sao? Nó có nằm trong vùng lấy nét không? Hậu cảnh như thế nào? Trước khi tất cả những yếu tố ấy trở nên thuần thục, thì điều khôn ngoan là bạn hãy đặt máy ảnh ở chế độ phơi sáng tự động. Việc này sẽ giúp bạn ít lo lắng hơn khi phải tập trung vào quá nhiều thứ. Dần dà sau đó, khi đã trở nên thành thạo kỹ thuật và đã học được cách thao tác máy ảnh, bạn sẽ bắt đầu cân nhắc kỹ từng điều chỉnh nhỏ trên máy ảnh để chụp ảnh một cách hoàn hảo. Chúng ta sẽ không chỉ học cách phơi sáng chính xác (đúng sáng), mà còn học cách tùy nghi để cho dư sáng hoặc thiếu sáng.

Việc chụp ảnh bằng phim đòi hỏi phải thay phim nếu muốn thay đổi ISO. Nhiếp ảnh KTS, trái lại, cho phép bạn chụp một loạt ảnh, thậm chí chỉ một bức ảnh, với một thiết đặt ISO này, rồi đổi qua một thiết đặt ISO khác, và tiếp tục chụp. Bạn có thể thay đổi ISO bất cứ lúc nào bạn muốn. Nguyên tắc là: ISO càng cao, độ nhạy sáng càng cao và hệ quả là nguy cơ nhiễu hạt càng cao. ISO càng thấp, độ nhạy sáng càng thấp và ảnh càng mịn.

Tốc độ màn trập


Tốc độ màn trập là lượng thời gian cảm biến hình ảnh được chiếu sáng (thời gian lộ sáng), nên có thể hiểu nôm na là thời gian mở và đóng màn trập chậm / lâu / kéo dài tức là tốc độ màn trập thấp, thời gian lộ sáng kéo dài; ngược lại thời gian mở và đóng màn trập nhanh / ngắn tức là tốc độ màn trập cao, thời gian lộ sáng ngắn. Lượng thời gian lộ sáng hay còn gọi là phơi sáng đó càng dài thì ánh sáng vào cảm biến càng nhiều (trong cùng điều kiện với các thông số khác: khẩu độ & ISO). Mỗi nấc tốc độ tương ứng thời gian màn trập mở nhanh gấp đôi nấc đứng trước nó và bằng 1/2 nấc đứng sau nó. 1/125 nhanh gấp đôi tốc độ 1/60 và 1/250 nhanh gấp đôi 1/125 chẳng hạn.

4174e172d6aeceb5a1af66b30b6d3a88

Đây là một số mẹo cơ bản về tốc độ chụp để bắt đầu:

  • Để bắt dính một chiếc xe trên đường đua, hay một ai đó đang chạy xe đạp, hãy bắt đầu với 1/500-1/1000 giây.
  • Đối với những bức ảnh thường ngày như chân dung hay quang cảnh, hãy sử dụng tốc độ từ 1/60 giây đến 1/250 giây.
  • Nếu ánh sáng không thực sự tốt, đừng tìm cách giảm xuống dưới 1/60 giây. Nếu là trường hợp bất khả kháng, bạn hãy cố giữ cho máy ảnh thật ổn định nhưng đừng mong bắt đính được bất cứ chuyển động nào mà ảnh đạt độ nét tốt.

Khẩu độ (f-stop)
Khẩu độ càng lớn (chỉ số F càng nhỏ) thì khoảng DOF sẽ càng ít/mỏng/cạn và ngược lại. Ví dụ bạn chụp ở khẩu độ f/2.8 thì DOF sẽ ít hơn (cạn hơn, mỏng hơn) so với chụp ở khẩu độ f/22 (dày hơn, sâu hơn) nếu chụp cùng một chủ đề, cùng một khoảng cách chụp và cùng điều kiện ánh sáng. Thông thường để dễ hiểu chúng ta cần ghi nhớ đơn giản như sau:

  • Khẩu độ lớn = số F nhỏ = DOF mỏng
  • Khẩu độ nhỏ = số F lớn = DOF sâu
b13c1456c0d4d45df08e19bdef202f56

THIẾT LẬP CHẾ ĐỘ CHỤP

Nếu nhấn thấy những bức ảnh mình chụp lúc nào cũng có vẻ tốt hơn khi giảm độ phơi sáng xuống một ‘stop’, hoặc tăng ½ ‘stop’, bạn hãy sử dụng thiết đặt bù sáng để cài đặt yếu tố ấy trên thước đo sáng của máy ảnh. Chức năng này làm cho bạn có thể tăng hoặc giảm độ phơi sáng lên đến ba f-stops. Kết quả đó thường được ghi rõ trên máy ảnh của bạn bằng một trị số từ +3 đến -3 ứng với mức gia tăng từ ½ đến 3 ‘stop’. Một khi bạn đã cài đặt, máy ảnh sẽ sẽ duy trì kết quả điều chỉnh cho đến khi bạn thay đổi nó. Đa số nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp tôi quen biết đều dùng tính năng bù sáng để tinh chỉnh thước đo trên máy ảnh của họ.

Hãy chụp một loạt nhiều tấm ảnh. Lúc nào có thời gian và chủ thể cho phép, bạn hãy chụp nhiều tấm khác nhau, như vậy bạn mới không bỏ lỡ một bức chụp quan trọng. Hãy kiểm tra các bức ảnh trên máy tính và loại đi những tấm không đạt trước khi đưa cho ai đó xem.

Các chế độ Phơi Sáng Tự Động (AE)

Trên hầu hết các máy ảnh KTS, bạn sẽ tìm thấy nhiều chế độ phơi sáng khác nhau, điển hình như sau:

  • ưu tiên khẩu độ AE(Av)
  • ưu tiên màn trập AE(Tv)
  • lập trình AE (P)
  • thủ công (M)

Ưu tiên khẩu độ
Ưu tiên khẩu độ giúp bạn có thể cài đặt f-stop (khẩu độ) và sau đó máy ảnh sẽ điều chỉnh tốc độ chụp để đưa
Các điều ghi nhớ liên quan đến chế độ A trên máy ảnh:

  • A – khi chọn chế độ A không phải là chế độ chụp Auto đúng nghĩa Auto chụp hoàn toàn tự động, giao phó tất cả cho máy ảnh xử lý, mà A viết tắt là Aperture Priority, nghĩa là ưu tiên KHẨU ĐỘ ỐNG KÍNH.
  • A – khi chụp chế độ A, tức là người chụp MUỐN tự mình chọn KHẨU ĐỘ ỐNG KÍNH theo ý mình. Mà khẩu độ ống kính là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến DOF. (DOF – viết tắt của Depth of Field mà dân chụp hay gọi là “đóp” hay “đốp”. Đơn giản nó là từ để diễn tả khoảng ảnh rõ nét và những gì ngoài khoảng rõ nét đó trong ảnh. Muốn cho chủ đề của bạn rõ nét thì nó phải nằm trong khoảng DOF của ảnh. Khi bạn lấy nét, trên một trục thẳng ta thấy ngoài điểm mà bạn cần muốn nét thì một số điểm phía trước điểm đó và phía sau điểm đó cũng rõ nét, khoảng ảnh rõ nét đó gọi là khoảng DOF.)
  • A – khi chụp chế độ A, là bạn muốn có DOF như ý muốn của mình, khoảng ảnh rõ trong ảnh dày hay mỏng theo ý của mình. Tức là không bận tâm đến tốc độ màn trập tương ứng là bao nhiêu, đối tượng tĩnh hay động, thậm chí để ISO Auto để máy tự cân đong đo đếm chọn ISO tương ứng mà không quan tâm đến độ mịn hay nhiễu hạt.
  • A – Muốn làm chủ chủ DOF, chọn chế độ A, thay đổi thông số khẩu độ theo ý muốn, bấm chụp!

Ưu tiên tốc độ màn trập
Bằng cách sử dụng ưu tiên màn trập, bạn có thể cài đặt tốc độ chụp, và máy ảnh tự chọn f-stop (khẩu độ) để đưa ra độ phơi sáng chính xác. Tính năng này có thể đặc biệt hữu dụng khi bạn chụp các chủ thể di động và muốn ‘đóng băng’ các chuyển động bằng cách cài đặt một tốc độ chụp ở mức cao. Do đó, nếu đang chụp một thác nước và muốn dòng nước nhòa đi, ban có thể cài đặt một tốc độ chụp chậm và khẩu độ sẽ tự điều chỉnh theo. Cần phải nói thêm rằng cả hai chế độ vừa đề cập ở trên đều được giả định cho trường hợp bạn có đủ ánh sáng để chụp các bức ảnh trong phạm vi tốc độ chụp và khẩu độ mà bạn đang sử dụng.

Khi bạn chọn chế độ chụp S / Tv để ưu tiên tốc độ màn trập, nghĩa là bạn chỉ còn được xoay bánh xe để tuỳ chỉnh tốc độ màn trập theo ý đồ chụp của bạn, chọn tốc độ trập tuỳ ý. Còn lại khẩu độ ống kính là máy tự tính và tuỳ ứng theo bối cảnh đo sáng của máy. Như vậy, bạn có thể để ISO Auto, hoặc cố định ISO, khi bạn chọn tốc độ theo ý định, thì khẩu độ tự thay đổi tương ứng.

a87618b6a826209f3e62262d911def09

Trong biểu đồ trên đây, mỗi kết hợp giữa khẩu độ ống kính và tốc độ chụp cùng cho ra một mức độ phơi sáng, hoặc để cho cùng một lượng ánh sáng như nhau lọt vào máy ảnh.

Lập trình (P)

Thiết đặt này để cho máy ảnh hoàn toàn đưa ra quyết định về thông số phơi sáng. Máy ảnh tự kết hợp tốc độ màn trập với khẩu độ. Trên một số máy ảnh, tính năng này có thể được cài đặt tuỳ theo đối tượng chụp, chẳng hạn như “chân dung”, “thể thao”, hoặc “phong cảnh.” Tuy nhiên, bạn hãy cẩn thận, nếu có không đủ (hoặc có quá nhiều) ánh sáng ngoài ý muốn, thì máy ảnh của bạn cũng sẽ không thể làm ra những điều kỳ diệu được. Ngay cả khi dùng thiết đặt này, bạn hãy kiểm tra trên màn hình LCD để bảo đảm mình sẽ có được bức ảnh như ý. Và đừng quên là bạn còn có thể sử dụng chế độ bù sáng để quyết định thay vì để máy ảnh tự làm.

Thủ công (M)

Chế độ này giúp bạn có thể tự tay cài đặt tốc độ chụp và khẩu độ một cách độc lập với nhau, tùy theo thước đo tích hợp sẵn trong máy ảnh hoặc thước đo cầm tay. Nhiều thợ chụp thương mại, còn dùng đo sáng rời, để có được nhiều trị số đo tại nhiều điểm khác nhau trong khung hình. Bằng phương pháp như thế, người chụp ảnh có toàn quyền kiểm soát đối với hiệu ứng hình ảnh mà các kết hợp tốc độ chụp và khẩu độ khác nhau có thể thực hiện. Thời kỳ chụp ảnh bằng phim còn thống trị, phương pháp này có xu hướng trở thành lĩnh vực độc quyền của những người chuyên nghiệp hoặc những người nghiệp dư có kinh nghiệm. Ngày nay, nhiếp ảnh KTS cho phép bạn chụp thử một bức ảnh, xem qua, điều chỉnh đôi chút, thấy có hơi khác, và bạn chụp được bức ảnh như ý.

Đa số máy ảnh D-SLR đều có một thiết đặt ‘autobracket’ (AEB). Tính năng thông minh nhỏ này cài đặt máy ảnh tự động chụp liền ba tấm: một với “độ phơi sáng đúng”, một dư sáng, và một thiếu sáng. Tôi nhận thấy tính năng này rất hữu dụng khi tác nghiệp nhanh bởi nó sẽ cho tôi chọn các bức ảnh sau. Bằng cách cài đặt máy ảnh chụp một bức ảnh với độ phơi sáng “chính xác”—đúng như máy ảnh nhìn thấy—và hai bức khác có thể có mức chênh lệch một f-stop, tôi luôn có thể kết thúc bằng một bức ảnh mà tôi cho là hoàn hảo hơn cả. Bạn có thể thay đổi trị số tăng giảm của AEB đến 1/3, ½ hoặc 2/3 stop so với bức chụp “chính xác”, tùy kiểu máy ảnh. Trên đa số máy ảnh, tính năng này có tác dụng với các thiết đặt chế độ tự động và thủ công.

MẸO: Quy tắc ánh nắng f/16
Nếu bạn cố chụp cho được một bức ảnh phong cảnh mà không có giá ba chân, hãy đảo lại độ ISO bằng cách chọn tốc độ chụp, ví dụ, với ISO 200 bạn có thể chọn 1/200 giây với khẩu độ f/16.

CÁC CƠ CHẾ ĐO SÁNG

Đa số máy ảnh D-SLR hiện đại, cùng với các chế độ phơi sáng tự động, đều có một số thiết đặt có thể tác động đến bức ảnh của bạn. Mặc định trên hầu hết các máy ảnh D-SLR và ‘point-and shoot’ là cơ chế đo sáng đa điểm. (Nikon gọi đó là đo sáng ma trận (matrix metering), Canon, thì gọi là đo sáng giá trị chung (evaluative). Phương pháp đo sáng này phân chia bức ảnh thành các vùng nhỏ, trong đó bộ vi xử lý của máy ảnh tự đo sáng từng vùng nhỏ ấy. Sau đó máy ảnh kết hợp những dữ liệu ấy với khẩu độ và tốc độ chụp rồi cho ra một kết quả gần như hoàn chỉnh trên toàn khung hình.

3721138_Screen_Shot_2016-05-28_at_20.02.22
  • Đo sáng một điểm – Spot Metering

Tính năng đo sáng một điểm thực sự là một thiết đặt rất hay. Dữ liệu đo sáng được thu thập từ một khu vực (diện tích) rất nhỏ nằm trong khung hình, đôi khi chỉ bằng một phần trăm bức ảnh. Điều này rất hữu ích khi bạn muốn chụp đúng sáng một đối tượng và không quan tâm đến các vùng sáng chênh lệch khác nhau xung quanh đối tượng nhỏ đó.

  • Đo sáng trung tâm – Center-weighted Meterting

Đo sáng trung tâm thì hơi thiên về tâm của khung hình hơn, là đo sáng một diện tích phần trung tâm khung ảnh, không cần phải chú ý nhiều đến các góc cạnh. Cá nhân tôi, tôi ít sử dụng tính năng này. Những người chụp ảnh khác thì thích nó bởi vì loại đo sáng như thế có xu hướng làm cho bức ảnh thiếu sáng, vốn rất phù hợp với phong cách ảnh phim cũ. Bao giờ cũng vậy, hãy thử nghiệm để tìm ra cách kết hợp tốt nhất và ưng ý bạn.

  • Đo sáng thủ công

Đây là một phụ tùng bên ngoài dành cho người chụp ảnh cần làm việc với ánh sáng nhân tạo phức tạp. Một máy đo sáng cầm tay thường là một kết hợp giữa thước đo độ phơi sáng và và thước đo đèn flash, và nói chung là được sử dụng như một thước đo phụ. Điều đó có nghĩa là thước đo lượng ánh sáng bao trùm trên chủ thể hơn là ánh sáng phản chiếu từ chủ thể như cách mà máy ảnh của bạn thực hiện việc đo sáng của nó. Đây là công cụ đạt độ chính xác cao được sử dụng bằng cách cầm nó đưa ra phía trước chủ thể với đỉnh tròn của nó hướng vào phía máy ảnh của bạn. Hệ thống này không dính dáng đến màu sắc của chủ thể. Trong thế giới KTS, loại thước đo này chủ yếu được sử dụng với đèn nháy/flash. Nó có khả năng đo được độ sáng/cường độ của một đèn flash trong studio, một khả năng không có trên thước đo của máy ảnh. Công cụ này là thiết yếu khi chụp những bức ảnh phức tạp với ánh sáng kiểu studio.

3721140_Screen_Shot_2016-05-28_at_20.03.12

TÌM HIỂU BIỂU ĐỒ

Một trong những khả năng hay của máy ảnh KTS là có thể xem lại các bức ảnh trên màn hình LCD. Cứ nói đi nói lại nhiều lần về việc kiểm tra độ phơi sáng trên màn hình LCD như thế này, đôi lúc tôi dường như nghe có ai đó nói: “Ông đúng là lão gàn. Dưới ánh nắng thì làm sao tôi có thể nhìn vào màn hình được. Làm sao tôi có thể đánh giá được mức độ phơi sáng của mình đây?” Đa số máy ảnh D-SLR đều có tính năng hiển thị một biểu đồ trên màn hình LCD. Đồ thị minh họa cách các điểm ảnh trong một bức ảnh được phân bố bằng cách biểu thị số lượng điểm ảnh theo từng mức độ màu sắc. Điều này cho bạn thấy bức ảnh có chứa đựng đầy đủ hay không các chi tiết trong các vùng bóng đổ (được hiển thị bên trái biểu đồ), vùng màu sắc trung bình (hiển thị ở giữa), và các vùng sáng (hiển thị bên phải) để tạo ra độ phơi sáng tốt cho toàn bộ.

3720282_WP20131029044227Pro_378e7

Histogram là biểu đồ trực quan về tất cả các màu sắc và sắc độ (tones) trong ảnh của bạn. Từ bên trái là những “tone” tối nhất di chuyển dần qua bên phải là những “tone” sáng nhất. Sự phân bố sắc độ (tones) và màu sắc cho bạn biết dữ liệu ảnh mà bạn chụp được. Nếu bạn chụp chủ đề của mình trên nền xám thì có nhiều khả năng biểu đồ dữ liệu của mình sẽ tập trung ở vùng giữa của Histogram (vùng dữ liệu tập trung nhiều gọi là “spike”). Tùy theo ảnh bạn chụp, bạn còn có thể biết màu nào một cách trực quan nằm trên vùng tối (shadow), vùng trung (midtone), hay vùng sáng (highlight).

Nếu có nhiều sắc độ (tones) nằm bên trái của Histogram có thể hình bạn chụp bị tối (underexpose), tuy nhiên nếu bạn chụp chủ đề trên nền tối và bạn đo sáng đúng khuôn mặt thì hoàn toàn okie cho dù dữ liệu sắc độ của bạn nằm bên trái nhiều.

Sắc độ (tones) được tổ chức thành từng vùng (sections) theo thứ tự từ trái sang phải là Black (cực tối), Shadow (tối), Exposure (Midtone), Highlight (sáng), và White (cực sáng). Đặc biệt trong Lightroom, bạn có thể dùng chuột để dịch chuyển các vùng sắc độ (tones) theo ý muốn bằng cách rê chuột lên trên vùng bạn muốn thay đổi sắc độ.

3720284_darklightcopy_d9a62

Khi đã quen nhìn vào biểu đồ, bạn sẽ nhận ra đó là một công cụ tuyệt vời để kiểm tra đi kiểm tra lại những bức ảnh của bạn, đặc biệt là trong các điều kiện ánh sáng bất lợi. Nếu biểu đồ trông ổn định, thì chẳng còn gì phải “lăn tăn” về hình ảnh sáng hay tối trên màn hình nữa. Sự thật nằm trong biểu đồ.

Một thực hành tốt là hãy chụp một vài bức ảnh về một chủ thể có đầy đủ sắc thái. Cài đặt máy ảnh của bạn ở chế độ chụp thủ công và chụp một bức theo gợi ý của biểu đồ. Sau đó hãy chụp cùng bức ảnh đó với ‘stop’ được tăng lên ½ hoặc 1/3, cho đến dưới 3 ‘stop’. Nhìn vào các biểu đồ của những bức ảnh ấy để tìm hiểu cách đọc và hiểu chúng, để ý đến cách mà biểu đồ thay đổi tùy theo thiếu sáng hoặc quá sáng. Phải nói trắng ra — và tôi có thể bị chỉ trích khi đơn giản hóa đến mức này – là bạn đang nhìn vào một dãy núi trong cửa sổ biểu đồ của bạn, khởi đi từ bên này, kết thúc ở bên kia, và lên đến tận đỉnh của khung biểu đồ. Tất nhiên, do mỗi bức ảnh có một nội dung khác nhau, nên các dãy núi của bạn sẽ không như nhau.

LẤY NÉT TỰ ĐỘNG

Đa số người chụp ảnh mới vào nghề đều để máy ở chế độ “thường xuyên” lấy nét tự động theo thiết đặt mặc định của nhà sản xuất, giống như phần lớn các thiết định khác trên máy ảnh của họ.

Giống như đa số những thiết đặt trên máy ảnh D-SLR, chức năng lấy nét tự động, nhưng không phải tự nó làm hết mọi việc vì có nhiều tùy chọn trong menu trên máy ảnh để tinh chỉnh việc lấy nét. Tôi không thể nhấn mạnh được hết tầm quan trọng về việc từng bước tìm hiểu cách sử dụng chúng và tất cả các tính năng trên máy ảnh của bạn cho bằng bạn tự tìm hiểu. Hiểu và tận dụng các chế độ lấy nét mà thiết bị cho phép tuỳ nghi từng ngoài cảnh cho phù hợp thì sẽ hiệu quả hơn, và bạn đã không bị lãng phí.

3721136_Screen_Shot_2016-05-28_at_20.07.46

Bạn nên tìm hiểu cách sử dụng vào lúc mới bắt đầu, có tên gọi phổ biến là “one-shot” hoặc “cơ chế tự động đơn” (single servo). Hãy dùng tính năng này trong các trường hợp bạn muốn lên bố cục cho bức ảnh khi chủ thể lệch tâm. Trong ống ngắm máy ảnh của bạn, sẽ có những lằn ngang hoặc những điểm AF (lấy nét tự động) để xác định điểm mà máy ảnh đang lấy nét. Hãy chĩa thẳng máy ảnh vào chủ thể sao cho điểm AF hướng đúng vào phần bức ảnh bạn muốn chọn làm điểm lấy nét ưu tiên. Khi nhấn giữ một nửa nút chụp để cố định việc lấy nét, bạn có thể lấy lại bố cục cho bức ảnh theo ý, giúp cho bố cục tốt hơn. Hãy cẩn thận, vì tính năng này hoàn toàn không phù hợp với các chủ thể di động, bởi lẽ một khi đã khóa lại, thì việc lấy nét vẫn giữ nguyên cho đến khi bạn nhấn nút chụp.

3721142_Screen_Shot_2016-05-28_at_20.08.45

Máy ảnh mặc định là tự động sử dụng hết các điểm AF trong các chế độ chụp. Chọn chế độ này, bạn bấm nút AF ở mặt sau máy ảnh (có thể vị trí các model khác nhau), màn hình các điểm nét hiển thị xác nhận AF đa điểm tự động. Khi bạn muốn lấy nét vào đối tượng gần nhất trong khung và khoảnh khắc có thể qua đi, AF tự động chọn là giải pháp tốt nhất, tránh tình trạng loay hoay với thiết bị mà khoảnh khắc vụt qua.

Trường hợp duy nhất mà tôi khuyên bạn nên tập trung vào cẩm nang sử dụng là khi bạn chụp ảnh qua một tấm lưới hoặc những tiền cảnh tương tự. Như khi chụp bóng đá, chẳng hạn, việc chụp từ phía sau cầu môn xuyên qua tấm lưới có thể mang lại một hiệu ứng sinh động. Nhưng vì máy ảnh được cài đặt ở chế độ tự động lấy nét nên dễ lấy nét vào lưới mà không trúng thủ môn chẳng hạn. Hãy tắt tính năng tự động lấy nét khi chụp loại hình hoạt động như thế. Việc này cũng áp dụng cho việc chụp ảnh động vật trong chuồng sở thú.

ĐỘ SÂU TRƯỜNG ẢNH

Là thuật ngữ được dùng để diễn tả vùng ảnh rõ nét – vùng trước và sau tính từ điểm nét của ảnh. Viết tắt là DOF (Depth of field). Kiểm soát vùng này bằng cách tuỳ chỉnh khẩu độ ống kính. Chẳng hạn bức ảnh dưới đây được chụp với khẩu độ f/2.8, vùng trước và sau điểm nét là trái chín đỏ bị mờ. Trong khi bức ảnh sau, khép khẩu độ xuống f/16, độ nét của ảnh sâu hơn.

98381750eade0add8f55ad6a1ddbbe62
61bf1391430c8439160204353d7f0394

Chiều sâu của bối cảnh trong ảnh chịu ảnh hưởng của tiêu cự ống kính. Khi bạn thay đổi tiêu cự ống kính từ ống góc rộng đến ống téle với cùng một góc chụp cùng bối cảnh, chiều sâu của ảnh cũng thay đổi. Với mỗi ảnh, người chụp di chuyển vị trí chụp để giữ đúng khung cảnh giữa các tấm ảnh sau.

3721154_upload_2016-5-29_19-42-30

Khi bạn nhìn thấy một bức ảnh phong cảnh đẹp được treo trên tường trong một gian phòng triển lãm, trông nó có vẻ rất giống như được chụp với một khẩu độ nhỏ (trị f/stop lớn) để có được độ sâu trường ảnh càng dày càng tốt. Ngay cả trong một ngày đầy nắng, việc sử dụng khẩu độ nhỏ nhất cũng có thể đòi hỏi một tốc độ chụp chậm hơn và, do đó, phải có chân máy.

Việc này có thể dẫn đến một tình huống khó xử. Ví dụ, bạn rất muốn sử dụng tốc độ chụp cao để chụp những ảnh về hoạt động. Mà bạn muốn khép khẩu độ nhỏ để có dof dày, trông bức ảnh sắc nét hơn. Một số người sẽ chỉ sử dụng độ nhạy ISO của cảm biến cao hơn, và như vậy phải bật chức năng chụp tốc độ cao và khẩu độ nhỏ. Nhưng khi bạn tăng độ nhạy của cảm biến, thì chất lượng hình ảnh có thể giảm do nhiễu hạt nếu ánh sáng không đủ tốt. Do vậy, tuỳ hoàn cảnh mà quyết định.

Bạn không thể có được hết mọi thứ, do đó bạn phải chọn những gì quan trọng nhất với mình. Ngay cả vào những ngày rực nắng trong năm, với mặt trời được chọn làm chủ thể, nếu sử dụng ISO 100, thì độ phơi sáng của bạn sẽ là 1/1000 với khẩu độ f/5.6 nhưng lại sử dụng ống tê-lê và hậu cảnh cách xa chủ thể thì cũng không thể có dof mỏng. Và giả như bạn đang chụp một trận bóng đá ban đêm với đèn chiếu yếu ớt, bạn sẽ gặp rắc rối thực sự vì cần tăng ISO lên rất cao để chụp tốc độ màn trập cao để bắt dính chuyển động, mà ISO cao thì dễ nhiễu hạt, nên khả năng khử nhiễu của thiết bị trong trường hợp này là cần thiết.

Một số ống kính có những vạch chỉ báo cho thấy ước lượng độ sâu trường ảnh hiệu quả như thế nào ứng với một khẩu độ cụ thể. Một ví dụ điển hình: với một ống kính 20mm được thiết đặt f/11 và khoảng cách lấy nét được ước lượng khoảng 1,5 mét, thì độ sâu trường ảnh sẽ mở rộng từ hơn 3m cho đến vô cực Sử dụng một ống kính 400mm được thiết đặt ở f/4, thì độ sâu trường ảnh với khoảng cách lấy nét được thiết đặt khoảng 10m sẽ ít hơn một chút.

Nên nhớ bạn có thể sử dụng độ sâu trường ảnh một cách sáng tạo bằng cách dùng khẩu độ lớn để tách riêng chủ thể. Chủ thể bạn chụp sẽ rõ nét nổi bật trong khi phần còn lại bao quanh trong bức ảnh vẫn giữ được độ mờ nhòe rất thú vị. Cũng vậy, với một ống kính góc rộng và khẩu độ nhỏ, hầu hết mọi thứ trong bức ảnh của bạn đều có thể sắc nét, giúp bạn có thể làm đầy khung hình và tách riêng chủ thể ở tiền cảnh, trong khi vẫn giữ được một cảm quan về cảnh chụp với một hậu cảnh sắc nét. Tóm lại, f-stop càng nhỏ, bạn càng có được độ sâu trường ảnh dày. Nhưng hãy luôn nhớ sử dụng một tốc độ chụp phù hợp với chủ thể bạn muốn chụp.

BỐ CỤC

Phần này đang đề cập đến một “nhãn quan” đối với một bức ảnh. Nhiếp ảnh là nhìn một thứ gì đó dưới dạng một hình ảnh và ghi nhận nó một cách thú vị và sinh động. Nếu chủ thể không có nội dung để bắt đầu với nó, bạn chẳng cần gì phải đưa thêm vào làm gì cho người xem thắc mắc. Nếu các màu sắc và hình dạng của chủ thể không bổ sung cho nhau, thì ngay cả những đường dẫn cũng chẳng ích gì cho bạn. Những thứ kia có mặt là nhằm giúp bạn tạo ra tối đa những gì bạn nhìn thấy và chụp ảnh. Nếu không ngừng nhìn xem và suy nghĩ, bạn sẽ chẳng thể nào có được những bức ảnh tuyệt vời.

Lên bố cục cho các bức ảnh của bạn một cách đúng đắn, nói một cách đơn giản, là làm ra một bức ảnh hài hòa. Việc này được thực hiện dễ dàng trong hầu hết các trường hợp. Thi thoảng, đơn giản chỉ là dựng đứng máy ảnh lên để chụp, khác với dạng thức chụp thông thường là cầm ngang máy ảnh để chụp phong cảnh .

Điều quan trọng là phải suy nghĩ thực sự về bức ảnh mình chụp và đừng quá sa vào các chi tiết kỹ thuật. Điểu này nghe có vẻ đạo đức giả, bởi vì phần chủ yếu của tập sách này đang bàn đến những phương diện kỹ thuật của nhiếp ảnh KTS, nhưng điều cốt yếu là hãy hiểu rằng khía cạnh kỹ thuật hiện hữu là nhằm giúp bạn có dịp thể hiện óc sáng tạo của mình. Nếu không nắm vững đầy đủ các cơ bản về sắp xếp bố cục, thì dẫu bạn có tiến bộ mấy về mặt kỹ thuật chăng nữa, các bức ảnh bạn chụp sẽ luôn thiếu đầu hụt đuôi.

Để khởi sự, hãy táo bạo và đưa toàn bộ chủ thể lọt vào ống ngắm của bạn. Nếu chủ thể thích hợp với một bức ảnh dọc, hãy chụp theo chiều đứng. Nếu chủ thể phù hợp với một bức ảnh ngang, hãy chụp theo kiểu nằm ngang. Lúc mới chụp ảnh, khi xem lại những bức ảnh vào cuối ngày, bạn sẽ ngạc nhiên khi nhận ra các chủ thể đều nhỏ hơn khung hình bạn đã chọn. Khi nhìn qua ống ngắm, bạn phải luôn đinh ninh trong đầu mình là đang nhìn vào mọi thứ nằm trong ống ngắm. Hãy lưu ý đến những gì chung quanh chủ thể và tự hỏi liệu chúng có đóng góp được gì thêm cho bức ảnh bạn đang định chụp hay không.

Một trong những ưu điểm của máy ảnh compact KTS, mà hầu hết máy ảnh D-SLR đều không có, đó là có thể dùng màn hình LCD ở mặt sau máy ảnh như một ống ngắm. Tôi nhận thấy người ta có khuynh hướng lên khung các bức ảnh của họ tốt hơn nhiều, khi sử dụng màn hình LCD, bởi vì họ có thể xem thấy toàn bộ bức ảnh. Màn hình LCD nhỏ đến mức mắt bạn không đảo ra ngoài khung hình được. Khi bạn nhìn qua một ống ngắm được thiết kế theo kiểu mắt thường, thì mắt bạn dễ đảo qua đảo lại và, do đó, không xem xét được hết khung hình.

Khi chụp một bức chân dung cận cảnh, bạn hãy tìm cách thử nghiệm cách lên khung của mình. Không phải lúc nào chủ thể bạn chụp cũng nằm giữa khung hình và nhìn thẳng vào máy ảnh. Có thể khi chụp con gái của bạn, chẳng hạn, thì có thể là thú vị hơn khi bố cục ảnh với cô bé ở bên trái hoặc bên phải, hay ngay chính giữa bức ảnh. Đến đây, mỗi khi bắt đầu lên khung cho các bức chân dung, bạn đã bắt đầu lên bố cục tốt cho các bức ảnh của bạn được rồi.

Vào thời Leonardo da Vinci, các họa sĩ mới bắt đầu nảy nở tài năng đã có quy tắc một phần ba được nhắc đi nhắc lại cho họ tại trường nghệ thuật. Tôi tự thấy các quy tắc thật là chán ngắt, nhưng buộc phải chấp nhận đây là một quy tắc thực sự rất hữu ích đối với những người học chụp ảnh.

Nhìn qua ống ngắm và ngẩm chia cảnh chụp thành ba phần ngang và dọc, như một kiểu ô chữ. Những điểm có các phần giao cắt nhau là những vị trí mà mắt thường tự nhiên nhận ra khi nhìn vào một bức ảnh. Do đó, thật hợp lý khi bạn tìm cách đặt chủ thể vào gần một trong bốn điểm giao cắt ấy. Trường hợp chụp một phong cảnh, thì cũng tốt khi thực hành lên bố cục bằng cách đặt đường chân trời vào một trong những đường tưởng tượng. Đến đây, chúng ta cũng phải lưu ý việc giữ thẳng đường chân trời cũng rất quan trọng. Những người mới bắt đầu thường hay mắc lỗi phổ biến này nhất. Thật khó coi khi nhìn thấy một bức ảnh có đường chân trời đổ nghiêng xuống.

Thay đổi góc chụp một bức ảnh có thể làm cho nó thay đổi rất nhiều. Với những chủ thể nhỏ, chẳng hạn như một vật nuôi và những đứa bé, bạn hãy cố thấp mình cho ngang tầm với chúng. Nằm xuống và nhìn lên đứa con một tuổi của bạn đang chập chững bước đi thì sẽ có một bức ảnh đẹp hơn rất nhiều. Một bức chân dung chụp cận cảnh con chó của bạn đang ngủ trên tấm thảm sẽ được chụp đẹp hơn rất nhiều nếu bạn nằm xuống ngang tầm với nó. Chọn một vị trí năng động để ngắm có thể hữu ích cho việc chụp ảnh và làm nổi bật các bức ảnh của bạn. Đừng ngại mình quá đáng và đứng ngay phía trên chú chó đang ngủ. Việc này có thể hoặc không thể mang lại thêm điểm ngắm phù hợp; song điều chủ yếu là hãy luôn thử nghiệm và tìm cho được bức ảnh sinh động nhất.

Tôi biết mình cứ nhắc đi nhắc lại như con vẹt, nhưng hãy luôn xem lại các bức ảnh của bạn trên màn hình LCD đằng sau máy ảnh KTS. Một mẹo hay đối với các máy ảnh có màn hình LCD là có thể sử dụng nó như một ống ngắm—nếu là loại có màn hình có bản lề và có thể điều chỉnh được—bằng cách giữ máy ảnh nằm trên sàn hoặc đưa lên cao quá đầu để có thêm điểm ngắm năng động và nhìn bức ảnh qua màn hình LCD để kiểm tra bố cục của bạn. Cách này đôi khi giúp bạn có thể có được một điểm ngắm, mà nếu với ống ngắm thông thường, bạn không thể làm được khi phải lên bố cục cho một bức ảnh. Có nhiều lúc bạn càng ít linh lợi, thì lại có thể càng hữu ích đối với bạn hơn.

Nếu khung hình của bạn chứa đựng những tuyến đường rõ ràng hoặc kéo dài liên tục, như những con đường, con sông, hàng rào, những tòa cao ốc, v.v…, hãy tận dụng những đường nét ấy khi lên bố cục cho bức ảnh để hướng mắt bạn nhìn vào chủ thể chính. Việc này đặc biệt hiệu quả khi các đường nét xuất phát từ góc dưới bức ảnh. Một con đường uốn khúc quanh co, chẳng hạn, dẫn đến một ngôi nhà thờ bạn đang chụp ảnh, đều dẫn dắt ánh mắt của bạn vào giữa bức ảnh.

Một lời cuối về màu sắc trong bố cục ảnh của bạn. Thật vô ích khi tìm cách áp dụng nguyên tắc một phần ba vào đây; chính bạn phải đích thân xem xét và đánh giá màu sắc cũng như nét thẩm mỹ của những kết hợp khác nhau. Các màu sắc có thể mang lại cho bức ảnh một cảm giác ấm áp hoặc lạnh lùng, phản ánh lại cái nhìn bằng nhận thức trước đó của chúng ta về màu sắc. Một cảnh mùa đông có thể được tôn thêm bằng cách sử dụng màu xanh lơ trong bức ảnh để nó toát ra vẻ lạnh lẽo, chẳng hạn, hay một chiếc dù màu đỏ trên bãi cát vàng có thể gợi lên cảm giác ấm áp. Tuy không phải lúc nào cũng có thể đưa thêm màu sắc vào bức ảnh, nhưng hãy chăm chút với màu sắc, nếu bạn đang có ý định có cho được bức ảnh thành công.

CÂN BẰNG MÀU

Trên phần lớn các máy ảnh KTS ngày nay, người chụp ảnh có xu hướng sử dụng thiết đặt cân bằng trắng tự động (AWB). Việc này rất khả quan đối với hầu hết các chủ thể. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, tốt hơn là nên sử dụng một vài thiết đặt cân bằng trắng được điều chỉnh trước, chẳng hạn như ánh nắng, bóng râm, ánh sáng đèn huỳnh quang, đèn dây tóc, và làm cho chúng hài hòa với ánh sáng đang hiện hữu. Bạn cũng có thể tự cài đặt một cân bằng trắng thủ công (WB Preset). Việc này được thực hiện bằng cách chụp một tấm thẻ màu xám trung hòa, với việc sử dụng một tùy chọn trên máy ảnh. Bấy giờ máy sẽ thực hiện một điều chỉnh để đưa ra màu sắc rất trung thực. Ở đâu có ánh sáng ổn định, thì đấy là nơi tốt nhất để thực hiện hoàn hảo một cân bằng màu cho ánh sáng pha tạp hoặc yếu. Một mẹo hay mà tôi thường hay sử dụng nếu không chụp RAW là cài đặt thước đo độ Kelvin (một kiểu đo màu) trên máy ảnh làm cho ánh sáng đang hiện hữu theo ý mình hơn.

3721164_upload_2016-5-29_20-7-29
  • Hết 90 phần trăm các trường hợp, tính năng cân bằng trắng tự động, giống như phơi sáng tự động, đều mang lại kết quả tuyệt vời.
  • Trong các điều kiện bất thường hoặc ánh sáng bị pha tạp, hoặc nữa là với các chủ thể có màu sắc nổi trội, hãy cố gắng cài đặt tính năng cân bằng màu bằng thủ công.
  • Đừng ngại làm cho bức ảnh của bạn có màu ấm hơn hay thiên lạnh hơn một chút bằng cách cài đặt thủ công theo ý bạn.
  • Nếu bạn đang sử dụng một máy ảnh co chụp định dang RAW, thì có nhiều điều chỉnh cân bằng màu có thể được thực hiện trên máy tính sau khi chụp xong. Tuy nhiên, đừng làm biếng và dựa dẫm vào việc đó để khỏi tự tay cài đặt cho chính xác. Bạn càng điều chỉnh chính xác các thiết đặt của máy ảnh, kết quả cuối cùng sẽ càng tuyệt.

TẦM QUAN TRỌNG CỦA HẬU CẢNH

Một trong những sai lầm phổ biến nhất của nhiều người là không để ý đủ đến hậu cảnh. Khi tôi chụp ảnh, một trong những yếu tố quan trọng hơn cả mà tôi cân nhắc là hậu cảnh của bức ảnh sẽ như thế nào. Nói cho cùng, không một bức ảnh nào có thể là bức ảnh “tuyệt vời” mà không có sự đóng góp của hậu cảnh. Điều này không có nghĩa là lúc nào cũng phải có cho được một hậu cảnh hài hòa, tuy đó cũng có thể là một khởi đầu tốt. Hậu cảnh không được làm rối loạn chủ thể chính của bức ảnh, dù là trong một bức ảnh về hoạt động, một bức chân dung, hay thậm chí một bức phong cảnh. Trong nhiều trường hợp, hậu cảnh được sử dụng để bổ sung và thêm nội dung vào cho bức ảnh.

Chỉ thay đổi đôi chút góc ảnh cũng có thể mang lại nhiều lợi ích. Chẳng hạn, nếu bạn chụp ai đó đang đi giữa trời nắng và các chọn lựa hậu cảnh đều không được như ý, hãy hạ máy xuống thấp và chụp ngược lên—đây là điều tôi ưa thích nhất— hậu cảnh tốt nhất đang có trước mắt: bầu trời xanh lơ. Cũng vậy, khi thời tiết xấu, vẫn có nhiều bức chân dung tuyệt vời được chụp ngược lên với bầu trời đầy mây, u ám, ảm đạm.

Thi thoảng, khi mà hậu cảnh không được tuyệt cho lắm, thì dùng ống kính tê-lê và chụp với khẩu độ lớn. Việc này đặt toàn bộ hậu cảnh ra ngoài vùng lấy nét và giúp cho chủ thể bạn chụp nổi bật. Cũng vậy, do ống kính tê-lê có một góc thu nhỏ hơn, nên cho phép bạn có nhiều chọn lựa hậu cảnh hơn.

Bạn đang chụp cô dâu trong ngày cô ấy kết hôn. Bằng cách đưa ngôi nhà thờ ở hậu cảnh vào khung hình thay vì xoá mù mịt, bạn có thể làm cho một bức chân dung đơn điệu, chán ngắt thành một bức ảnh đẹp hơn. Trong trường hợp này, hậu cảnh bổ sung cho bức ảnh, chứ không làm phân tán hoặc áp đảo nó. Bạn phải cẩn thận đừng để cho hậu cảnh lấn lướt bức ảnh. Hãy nhớ những gì bạn đã cài đặt để chụp ảnh và sử dụng những gì chung quanh chủ thể để mang lại hiệu quả cho việc bố cục và lên khung của bạn.

Gần như không thể tiếp tục chụp ảnh tốt dần lên mà không quan tâm đến hậu cảnh là một trong những yếu tố cốt thiết nhất của chụp ảnh có bố cục tốt. Một vài bức chân dung đẹp thực sự là nhờ vào hậu cảnh tuyền một màu đen. Một số các bức tĩnh vật sinh động được làm cho đẹp thêm nhờ hậu cảnh hoàn toàn màu trắng.

Một vài điểm cần ghi nhớ trong đầu khi chụp ảnh gia đình đi dã ngoại:

  • Luôn luôn, lúc nào cũng vậy, hãy lưu ý đến hậu cảnh.
  • Khi chụp ảnh cô bạn gái của bạn tại một thành phố, đừng để cho một tòa nhà chọc trời vượt lên phía sau đầu cô bé.
  • Đừng chụp cậu em trai của bạn tại một khe núi lớn với đường chân trời vượt quá hai tai cậu bé.
  • Khi chụp bố bạn đang câu cá, hay lên khung với mặt hồ ở hậu cảnh—chứ không phải chiếc xe hơi đậu gần bên hồ.
  • Khi chụp bà cô của bạn nhân ngày sinh nhật bà, hãy bảo đảm bảng hiệu sáng choang trên lối ra vào của nhà hàng không làm cho mắt bạn lãng khỏi chiếc bánh sinh nhật.
  • Khi chụp con trai bạn đang chơi trận bóng đá đầu tiên của cháu, hãy chọn một vị trí có cảnh cây cối xanh tươi, chứ không phải khán phòng thể thao khó chịu, phía sau bức ảnh hoạt động bạn đang định chụp.
  • Khi lén chụp một cô bạn gái đang tắm nắng trên bãi biển, hãy đợi cho đến khi người đàn ông sải bước cùng với con chó của ông du khách lạ phía sau cô bạn đi khỏi đã.

CHỤP ẢNH VỚI ĐÈN FLASH

Đến thời điểm này, tôi phải hết sức thành thực để nói với bạn: tôi thường không thích chụp ảnh với đèn flash. Tôi thích dùng bất cứ ánh sáng tự nhiên nào có sẵn và vận dụng chủ thể để thực hiện các hiệu ứng về sau. Nhưng có những trường hợp sử dụng đèn flash là một kỹ thuật hữu ích, và có một số điều chúng ta cần biết để sử dung đèn flash cách tốt nhất.

Đèn Flash trên máy ảnh

Chúng ta đã xem qua nhiều thí dụ về việc tại sao không nên sử dụng đèn flash—chẳng hạn như những bức ảnh mà trong đó chủ thể đứng ngay trước một bức tường và ánh đèn flash tạo nên một cái bóng đen vô cùng tệ hại lấn át cả bức chụp. Nếu đèn flash được tích hợp trên máy ảnh, thì thường là khó mà tránh khỏi tình trạng như thế, nhưng có một số mẹo có thể hữu ích.

Di chuyển chủ thể khỏi hậu cảnh; càng xa ra khỏi một bề mặt có thể in bóng lại rõ ràng, kết quả sẽ càng tốt hơn. Khoảng cách giữa chủ thể và chiếc bóng sẽ không chỉ xác định kích thước của chiếc bóng mà con cả độ nét các đường rìa của nó nữa, do đó, khoảng cách càng lớn, bóng đổ sẽ càng mờ.

Trong một số trường hợp không thể thực hiện việc tách chủ thể ra khỏi hậu cảnh, thì không thể tránh khỏi có một chiếc bóng đằng sau chủ thể, và việc tốt nhất bạn có thể thực hiện vào những lúc đó là làm cho chiếc bóng càng mờ đi càng tốt. Hãy chụp ở một góc mà sẽ hắt bóng phía sau lưng chủ thể hơn là ngay đằng sau gương mặt, hoặc sử dụng cách hắt lại ánh đèn flash.

Bouncing Flash

Bằng cách di chuyển luồng sáng của đèn flash, bạn có thể làm cho nó phản chiếu lại, hoặc hắt lại, từ một bề mặt khác để thay đổi góc chiếu và chất lượng của nó đến chủ thể bạn chụp. Hiệu ứng hắt lại ánh sáng làm phát sinh một ánh sáng ít trực diện và ít gay gắt hơn, dẫn đến một hiệu ứng dịu đi với ít bóng đổ hơn nhiều. Như các bạn hay thấy người chụp hay hướng đèn rời lên trần nhà chẳng hạn.

Có thể dùng một mẫu bìa cứng đơn giản (hoặc ống đựng phim, đựng thuốc tây, v.v…) màu trắng đục để thay đổi góc chiếu của ánh sáng phát ra từ đèn flash bằng cách dùng nó bọc quanh đèn và tạo thành một kiểu hình ống tuýp nhỏ, có thể xoay qua xoay lại được. Điều chỉnh góc chiếu của đèn để hướng ánh sáng vào phía thích hợp—thường là một bức tường hoặc trần nhà có màu nhạt—rồi chĩa máy vào chủ thể để chụp.


Diffusing Flash

Một trong những vấn đề lớn nhất đối với đèn flash trên máy ảnh là ánh sáng chói do nó tạo ra; ánh sáng chói, như chúng ta đã đề cập ở trước, tạo ra những bóng đổ đậm khiến cho các bức ảnh mất đi tính hấp dẫn.

Chúng ta có thể xử lý vấn đề này bằng cách khuếch tán hoặc làm dịu bớt ánh sáng do đèn flash gây ra bằng một bộ khuếch tán của nhà sản xuất, hoặc có thể tự làm lấy. Việc này khá đơn giản, chỉ cần dùng một chiếc khăn tay hoặc một mẩu khăn giấy màu trắng mỏng đưa ra đằng trước đèn flash. Ánh sáng đi xuyên qua khăn tay hay mẩu khăn giấy sẽ giảm đi, hoặc bị phân tán, tạo ra ít bóng đổ và nhìn dịu hơn, thậm chí còn làm cho các vết nhăn nheo trên gương mặt của bà cô già khó nhận thấy hơn.

HIỆN TƯỢNG TIỀN CẢNH SÁNG NHƯNG HẬU CẢNH LẠI TỐI ĐEN

Một kịch bản xấu khác về ánh đèn flash mà chúng ta ai cũng từng trải qua, đó là “tiền cảnh sáng, hậu cảnh tối đen” (“bright foreground, black background”), trong đó chủ thể được chụp chính xác nhưng hậu cảnh lại hoàn toàn thiếu sáng và tuyền một màu đen. Một người bạn của tôi đã hoàn thành một cuốn album toàn những bức ảnh như thế. “This is Margaret in Paris,” và “This is Margaret in Rome” v.v… Tất cả các bức ảnh đều trông như nhau—những bức chụp Margaret với hậu cảnh tối đen.

Nguyên nhân thật đơn giản: tốc độ chụp quá nhanh. Đèn flash luôn phát ra đủ ánh sáng để chụp chủ thể một cách chính xác, nhưng màn trập lại mở-đóng quá nhanh không kịp để cho ánh sáng chung quanh hậu cảnh được bắt dính.

Cài đặt tốc độ chụp ở mức thấp tương ứng với tốc độ ăn đèn sẽ giúp giải quyết được vấn đề. Đèn flash sẽ “đóng băng” chủ thể trong khi độ trễ của màn trập sẽ để cho có thêm ánh sáng chung quanh lọt vào ống kính. Bắt dính ánh sáng chung quanh giúp cho hậu cảnh xuất hiện chi tiết hơn trong bức chụp.

Có thể sử dụng tốc độ chụp chậm là 1/15 giây hoặc thậm chí thấp hơn, tuy nhiên, nếu bạn không muốn có nguy cơ làm nhòe các phần chung quanh cảnh chụp, bạn phải cố định máy ảnh (ví dụ, bằng giá ba chân). Hãy thử nghiệm, và nhìn xem những kết quả bạn có thể có được. Nếu lần đầu tiên không hiệu quả, hãy xóa bức ảnh và thử lại lần nữa bằng cách dùng một tốc độ chụp khác.

Đèn Flash rời

Ngay cả khi máy ảnh KTS mới của bạn có một đèn flash được tích hợp sẵn, thì cũng đáng cân nhắc để mua thêm một bộ đèn flash rời. Việc này sẽ giúp cho việc chụp ảnh với đèn flash của bạn được linh động hơn. Hiện có quá nhiều loại đèn như thế trên thị trường nên khó lòng kể ra được hết, nhưng một bộ đèn flash chất lượng cũng đáng để bỏ tiền ra mua.

Nhiều hãng sản xuất loại máy ảnh lớn hơn có sản xuất loại đèn độc quyền của họ, và nếu mua loại cùng nhãn hiệu với máy ảnh của bạn thì quá tốt. Một bộ đèn Flash dành riêng cho một loại máy ảnh cụ thể luôn cung cấp đầy đủ các tính năng lọt qua ống kính và đèn flash với các khả năng không dây/đa chức năng. Sở hữu một bộ đèn flash cao cấp, bạn sẽ có nhiều tùy chọn hơn, khi phải tạo ra những trạng thái ánh sáng khác nhau.

Tôi thích loại đèn flash có thể tháo rời và đặt bên cạnh chủ thể để tạo một nguồn sáng, hoặc đặt vào những vị trí khác để tạo ra các hiệu ứng ánh sáng khác nhau. Nếu máy ảnh của bạn không có khe cắm đồng bộ hóa—mà phải cắm thông qua một dây cáp—thì vẫn có những cách khác để đèn flash hoạt động độc lập với máy ảnh. Có những thiết bị gắn vừa với ngàm trên máy ảnh và có thể được nối bằng một dây cáp hoặc được đồng bộ hóa để trở thành một đèn flash rời.

Còn có một loại thiết bị nhỏ với giá tương đối rẻ gọi là bộ đèn “nhại” (slave). Thiết bị điện tử này được kích hoạt bằng tiến trình kích sáng của đèn flash. Được gắn với bộ đèn flash rời, nó được đốt sáng khi được kích sáng từ một bộ đèn flash khác.

Nếu máy ảnh của bạn là loại có đèn flash tích hợp sẵn, thì chính đèn flash này có thể được sử dụng để kích sáng một đèn khác được gắn với bộ đèn “nhại”. Việc này giúp cho tận dụng thêm một nguồn sáng thứ hai được đặt bất cứ đâu tùy ý. Hiện nay, đa phần các hãng sản xuất có thương hiệu đều thiết kế tính năng không dây ấy trong hệ thống đèn flash của họ, mang lại đầy đủ chức năng tự động và không cần phải dùng đến dây nối. Sử dụng đèn flash rời theo cách ấy có thể có được vùng sáng nổi bật, hoặc hướng sáng chính-phụ, đưa thêm nhiều độ sâu vào cho bức ảnh của bạn.

Fill Flash

Trong những dịp hiếm hoi có ánh nắng mặt trời rực rỡ, độ sáng có thể khiến cho bức ảnh có quá nhiều khác biệt giữa các điểm sáng và tối. Các bức ảnh có thể có ánh sáng không đồng đều. Nếu chụp để lấy những vùng sáng, thì phần các vùng tối sẽ bị đen và không có chi tiết. Đây là lúc chúng ta cần dùng đèn flash bổ trợ.

Flash bổ trợ đơn giản chỉ là sử dụng thêm một đèn flash để có được nhiều ánh sáng cho các vùng tối. Kỹ thuật này giúp cho có được một bức ảnh đồng đều trong đó những điểm sáng cân bằng hơn với các vùng tối.

Để sử dụng Flash bổ trợ, trước hết chúng ta phải biết tốc độ máy ảnh D-SLR của chúng ta đồng bộ hóa với đèn flash như thế nào. Nếu đèn flash không được đồng bộ hóa thì sẽ ít hiệu quả.

Đa số máy ảnh D-SLR có một tốc độ đồng bộ hóa là 1/60 giây – 1/250s. Các tốc độ tương đối chậm được sử dụng với đa số máy ảnh để đồng bộ hóa với đèn flash có nghĩa là, để thực hiện được một phơi sáng chính xác, chúng ta cần phải cài đặt độ nhạy của cảm biến đến một ISO thấp hơn nếu không, toàn bộ bức ảnh sẽ bị quá sáng. Một khi tốc độ chụp được cài đặt với tốc độ đồng bộ hóa chính xác, bước tiếp theo là sử dụng tất cả các thông số phơi sáng.

Giả dụ như chúng ta có được thông số là 1/60 giây, khẩu độ f/11 và ISO 100; bấy giờ tất cả những gì chúng ta cần làm là cài đặt đèn flash với một cách biệt phù hợp và khẩu độ là f/8 (một ‘stop’ so với toàn bộ thông số phơi sáng). Việc này sẽ mang lại đủ công suất để “tác động” lên các phần tối, nhưng không hoàn toàn xóa bỏ chúng.

ĐEN TRẮNG

Đa phần máy ảnh KTS đều có chức năng cho phép bạn chụp ảnh trắng đen. Tuy đó là một tùy chọn, nhưng tôi muốn gợi ý bạn nên chụp các bức ảnh màu, rồi sau đó chuyển đổi chúng sang ảnh đen trắng trên máy tính, bằng cách sử dụng phần mền chỉnh sửa ảnh thich hợp. Việc này không chỉ mang lại cho bạn tùy chọn tái tạo ảnh bằng màu hoặc trắng đen mà thôi, song tôi nhận thấy rằng, việc chụp ảnh màu rồi sau đó chuyển sang ảnh trắng đen, thường làm cho các vùng tối nổi rõ chi tiết hơn bức ảnh được chụp đen trắng ngay từ đầu. Bạn chịu khó xem lại Chương Năm trong đó chúng ta có đề cập đến các lý do tại sao và cách để giải quyết.

CHẤT LƯỢNG ÁNH SÁNG

Nhiều người thường hỏi tôi, “Khi nào là thời điểm tốt nhất để chụp ảnh ?”

Đây là một câu hỏi mà quả thực là không chỉ có một câu trả lời; có nhiều ý kiến khác nhau. Tuy nhiên, tôi tin chắc rằng việc có thể xác định được các điều kiện ánh sáng như thế nào, thì sẽ nắm được ưu thế vào các thời điểm khác nhau trong ngày—và biết cách sử dụng các điều kiện ánh sáng khác nhau ấy—là một trong những kỹ năng tuyệt vời nhất đối với nhiếp ảnh.

Những thời điểm tốt nhất để chụp ảnh thường là buổi chiều tà hoặc buối sáng sớm. Tuy nhiên, ngay cả khi mặt trời nằm ở vị trí thấp trên bầu trời vào hai thời điểm ấy trong ngày, thì tiến trình quang hợp vẫn tạo ra những màu sắc rất khác nhau vào hai lúc ấy. Quang hợp là phản ứng hóa học giữ cho hoa lá cỏ cây có được màu xanh tươi tốt dưới ánh nắng mặt trời. Nhưng những hạt bụi lơ lửng trong không khí cũng phản ứng lại với ánh nắng, trở thành một màu sẫm hơn, tuy không nhìn rõ, vào ban sáng.

Ánh sáng buổi đầu ngày rất trong, thứ ánh sáng trắng mang lại màu sắc tươi tắn và sống động. Buổi chiều tà hoặc ngay trước lúc trời tối mang lại một ánh sáng dịu dàng ấm áp hơn. Và vị trí thấp của mặt trời trong hai thời điểm ấy luôn gây ra những bóng đổ dài và sẫm màu. Tính chất của ánh sáng buổi chiều tà—thứ ánh sáng dịu dàng ấm áp, phân tán và càng lúc càng yếu dần—khiến nó trở thành một thời điểm lý tưởng để chụp ngược sáng. Bố trí chủ thể ra phía trước mặt trời và dùng một gương phản xạ hoặc một đèn flash bổ trợ nhỏ, bạn có thể có được những bức chân dung với những vùng bao quanh vàng rực mang lại một hiệu ứng vô cùng thoát tục.

Một cách rất hay để tự mình khám phá hiệu ứng ánh sáng vào các thời điểm khác nhau trong ngày là tìm đến một nơi phong phú cảnh sắc và chụp một vài bức ảnh vào buổi sáng sớm. Cũng chụp như vậy vào buổi trưa, và sau đó là buổi chiều. Hãy so sánh các bức ảnh và bạn sẽ tận mắt nhìn thấy cách mà ánh sáng thay đổi vào những thời điểm khác nhau trong ngày như thế nào.

Thời điểm trong ngày mà tôi không mấy ưa thích để chụp ảnh là buổi trưa. Mặt trời đạt đến vị trí cao nhất của nó nên gây ra những bóng đổ quá sẫm màu buộc bạn phải hạn chế. Ở đây, một lần nữa, đèn flash bổ trợ hoặc một cặp gương phản xạ có thể giúp giải quyết các bóng đổ do ánh sáng gay gắt tạo ra.

Những ngày mưa và u ám cũng có thể có được những bức ảnh tốt nếu biết cách sử dụng. Một rặng đá ven biển với những đợt sóng vỗ cũng có thể trở thành kỳ vĩ dưới bầu trời u ám đầy mây được dùng làm hậu cảnh. Một người đang nhìn qua cửa sổ dưới cơn mưa có thể gây nên nhiều cảm giác khác nhau. Ngay sau khi một cơn mưa giông vừa dứt, tôi thích thứ ánh sáng ló ra từ những đám mây đen khi chúng trôi đi. Những ló sáng như thế có thể làm sáng rỡ phong cảnh như những chiếc đèn lớn trên sân khấu.

Ánh sáng là sự sống còn đối với nhiếp ảnh, và việc tìm hiểu được cách ánh sáng vận hành ra sao vào các thời điểm khác nhau trong ngày, và đúng hơn, vào những thời điểm khác nhau trong năm, là một kỹ năng mà người ta phải nắm vững mới có thể trở thành một nhiếp ảnh gia thành công.

Đây là tóm kết một số thủ thuật cơ bản:

  • Vào buổi sáng sớm, khi mặt trời còn ở vị trí thấp trên bầu trời, ánh sáng đẹp và trong trẻo. Đây là một thời điểm tốt để chụp ảnh phong cảnh, do độ dài quá cỡ của các bóng đổ đưa thêm hiệu ứng 3D vào cho các bức ảnh bạn chụp.
  • Buổi trưa đứng bóng, khi mặt trời ở ngay trên đỉnh đầu, các bóng đổ đều ngắn và sẫm màu nên ánh sáng có thể trở nên rất tương phản. Việc chụp chân dung vào lúc này đặc biệt khó khăn bởi vì bạn phải sử dụng flash bổ trợ hoặc gương phản xạ để làm dịu đi hiệu ứng các bóng đổ.
  • Buổi chiều tà mang lại một ánh sáng ấm áp tán sắc cùng với những bóng đổ dài và nhạt màu. Đây là một thời điểm lý tưởng dành cho hầu hết mọi thể loại nhiếp ảnh.
  • Ánh sáng luôn năng động. Hãy lên kế hoạch cho việc chụp ảnh của bạn tương thích với ánh sáng càng nhiều càng tốt. Nếu nhìn thấy một hình ảnh như ý nhưng ánh sáng quá gay gắt, bạn hãy chờ cho đến khi các tình trạng được cải thiện. Rõ ràng những tình trạng ấy như thế nào, thì bức ảnh của bạn cũng sẽ như thế ấy.
  • Thời tiết “tốt” không nhất thiết là có ánh sáng tốt. Những ngày âm u làm ánh sáng dịu đi một cách dễ chịu và giảm bớt độ tương phản của nó, đồng thời các cơn bão cũng có thể tạo ra những hiệu ứng siêu thực hiếm hoi khiến nó biến thành một cảnh trí khác thường.


Cuối cùng, thiết bị là công cụ trong tay bạn sử dụng, kỹ thuật chỉ quan trọng ở mức độ là ta buộc phải làm chủ nó để truyền đạt những gì ta nhìn thấy. Kỹ thuật cá nhân của riêng ta phải được sáng tạo và thích ứng chỉ nhằm để làm cho tầm nhìn của ta đạt được hiệu quả trên tấm cảm biến của cái thiết bị ghi hình mà ta đang cầm nó.